“ Every life is in many days, day after day. We walk through ourselves, meeting robbers, ghosts, giants, old men, young men, wives, widows, brothers-in-love, but always meeting ourselves.”
“ Mỗi cuộc đời đều có nhiều ngày, ngày này qua ngày khác. Chúng ta đi qua chính mình, gặp kẻ cướp, ma, người khổng lồ, ông già, thanh niên, vợ, goá phụ, anh em yêu nhau, nhưng luôn gặp chính mình. “
James Augustine Aloysius Joyce là nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học người Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulysses (1922). Các tác phẩm chính khác của ông là tập truyện ngắn Dubliner (1914), các tiểu thuyết A Portrait of the Artist as a Young Man (1916) và Finnegans Wake (1939). Joyce còn là tác giả của các tập thơ Nhạc Thính phòng (Chamber Music, 1907), Thơ một xu một bài. (Poems Pennyeach, 1927 ) , Colleted Poems, 1936. Dù số lượng không nhiều nhưng thơ của James Joyce có sự ảnh hưởng rất lớn đến các nhà thơ Anh phái Hình tượng. Giới phê bình ngày nay đặt Joyce ở vị trí hàng đầu chủ nghĩa hiện đại Anglo-Saxon, cùng với T.S. Eliot, Virginia Woolf và Ezra Pound.
Joyce học ngôn ngữ và văn học Anh tại Dublin, nhưng rồi năm 1902 đến Paris học y khoa và sớm từ bỏ và quay trở lại Dublin. Năm 1904 ông gặp Nora Barmacle, sống chung và có 3 con nhưng phải đến năm 1931 mới kết hôn. Ông từng đi dạy tiếng Anh, làm gia sư hay viết bài đăng báo để kiếm sống.
Với phong cách tự
truyện, văn xuôi của Joyce in đậm thế giới Ireland, đặc biệt là Dublin, nơi ông
sống từ nhỏ cho đến khi trưởng thành.
James Joyce được cộng đồng nói tiếng Anh tưởng niệm hàng năm vào ngày 16 tháng 6 là ngày diễn biến trong tiểu thuyết Ulysses.
Trong các tác phẩm của
ông, cần nhắc đến tuyển tập 15 truyện ngắn xuất bản lần đầu năm 1914. Các truyện
này được viết khi chủ nghĩa dân tộc Ireland cũng như quá trình tìm kiếm bản sắc
dân tộc đang ở đỉnh cao.
Dù lúc ban đầu rất
yêu thích sân khấu, Joyce chỉ xuất bản một vở kịch nhan đề Exiles vào năm 1918,
đề cập mối quan hệ vợ chồng.
Về thơ, ông xuất bản
cả thảy ba thi phẩm.
Theo Harry Levin, tác phẩm của Joyce xoay quanh hai chủ đề: nghệ sĩ và thành phố.
Thư viện Quốc gia
Ireland hiện giữ bộ sưu tập lớn những tài liệu liên quan đến Joyce như bản thảo
và sổ ghi chép, phần lớn được đưa lên mạng trực tuyến.
Araby là một trong
15 truyện của James Joyce in trong tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của James
Joyce in năm 1984. Mỗi truyện tồn tại độc lập nhưng tất cả đều gắn kết nhau bởi
bối cảnh những năm đầu của thế kỷ XX, tất cả đều tiến triển trên trục chính là
sự ngây thơ của tuổi nhỏ, sự vô vọng và ảo
tưởng . Truyện viết về người Dublin.
Trong truyện, tác giả thường xuyên dùng màu xám, tạo nên khung cảnh chán nản,
vô vọng cho câu chuyện.
Chủ đề chính của Araby là ước muốn vượt thoát nhưng thất bại và ý thức về ảo tưởng vô vọng. Những bí mật của đời tư một người luôn bị chỉ trích.
Khu phố North Richmond, một ngõ cụt, một khu phố yên tĩnh ngoại trừ vào giờ tan trường của các chủng sinh trường Christian Brothers. Một ngôi nhà hai tầng không có người ở nằm ở góc khuất, tách biệt với những ngôi nhà lân cận trong một khu đất vuông . Những ngôi nhà khác trong khu phố, cuộc sống vẫn diễn ra bình yên với những con người mang những khuôn mặt nâu sạm. Người thuê nhà trước đây của chúng tôi, một linh mục, đã chết trong phòng khách phía sau. Không khí, mùi mốc đã được bao phủ từ lâu, bám đầy trong tất cả các phòng, và căn phòng dùng làm nhà kho phía sau nhà bếp ngổn ngang những giấy tờ cũ vô dụng. Trong số này, tôi tìm thấy một vài cuốn sách bìa cứng, những trang sách bị quăn và ẩm ướt: The Abbot, của Walter Scott, Người giao tiếp sùng đạo, và Hồi ký của Vidocq. Tôi thích quyển sách cuối cùng nhất vì những trang sách màu vàng. Khu vườn hoang phía sau ngôi nhà có một cây táo và một vài bụi cây rậm rạp, dưới một trong số bụi rậm đó tôi tìm thấy chiếc máy bơm xe đạp đã gỉ của người thuê nhà trước kia. Ông đã từng là một linh mục rất bác ái; trong di chúc của mình, ông ta đã để lại tất cả tiền bạc cho các tổ chức và đồ đạc trong nhà cho em gái của ông ta.
Khi những ngày ngắn ngủi của mùa đông đến, hoàng hôn buông xuống trước khi chúng tôi ăn bữa tối. Lúc chúng tôi gặp nhau trên đường phố, những ngôi nhà lẫn trong màn sương ảm đạm. Không gian bầu trời phía trên chúng tôi là một màu tím luôn thay đổi và hướng về phía những ngọn đèn đường tiếp thêm ánh sáng cho những ngọn đèn lồng loe loét trong những ngôi nhà. Không khí lạnh buốt làm cho chúng tôi rét run người vì vậy, chúng tôi chơi đùa cho đến khi cơ thể nóng lên. Tiếng hò hét của chúng tôi vang vọng trên con phố vắng lặng. Những trò chơi của chúng tôi đã đưa chúng tôi đi qua những con đường lầy lội tối tăm phía sau những ngôi nhà, nơi chúng tôi chạy giữa những lối mòn gồ ghề giữa những ngôi nhà nhỏ đến cửa sau của những khu vườn nhỏ tối tăm nơi có mùi hôi bốc ra từ những đống tro tàn, đến những cái chuồng đen ngòm. Nơi mà người đánh xe chải mượt lông cho ngựa hoặc gắn lục lạc trên nịt cổ của ngựa. Khi chúng tôi trở lại đường phố, ánh sáng từ cửa sổ nhà bếp đã lan tỏa ra khu vực bên ngoài. Khi chúng tôi thấy chú tôi đang rẽ vào góc quẹo của con đường, chúng tôi sẽ nấp trong bóng tối cho đến khi chúng tôi nhìn thấy chú ấy vào nhà. Hoặc nếu chị gái của Mangan bước ra trước cửa để gọi em trai vào uống trà, chúng tôi sẽ dõi theo bước chân của cô ấy qua lại và tự hỏi liệu cô ấy sẽ đứng lại trước cửa hay đi vào trong, và nếu cô ấy vẫn đứng lại đó, chúng tôi háo hức rời khỏi nơi ẩn nấp bước đến bậc thềm. Cô ấy đang đợi chúng tôi, bóng dáng của cô ấy in hình lên tường bởi ánh sáng từ cánh cửa khép hờ. Em trai cô luôn nghịch ngợm một lúc sau đó mới nghe lời, và tôi đứng bên lan can nhìn cô ấy. Chiếc váy của cô đung đưa khi cô di chuyển cơ thể, và những sợi tóc mềm mại hất từ bên này sang bên kia. Mỗi sáng, tôi nằm trên sàn trong phòng khách nhìn vào cửa phòng của cô. Tấm mành một inch được kéo xuống phủ lấy cánh cửa tôi không thể nhìn thấy bên trong căn phòng. Khi cô ấy bước ra trước cửa, trái tim tôi đập loạn xạ. Tôi chạy ra sảnh, thu dọn sách vở và đi theo cô ấy. Tôi luôn để hình bóng của cô ấy trong tim mình và khi chúng tôi đến gần đoạn phải rẽ theo hai hướng khác nhau, tôi tăng tốc vượt qua cô ấy. Chuyện này xảy ra sáng này qua sáng khác.
Tôi chưa bao giờ nói chuyện với cô ấy, ngoại trừ nói một vài từ xã giao, nhưng tên của cô ấy luôn ngự trị trong tim tôi, trong huyết quản của tôi. Hình ảnh của cô đã đi cùng tôi đến mọi nơi, làm cho cuộc sống của tôi thêm phần lãng mạn. Vào một buổi tối thứ bảy khi dì tôi đi chợ, tôi phải đi theo để mang đồ giúp cho dì. Chúng tôi đi qua những con phố rực rỡ, chen lấn với những người đàn ông say rượu và những người phụ nữ mặc cả, giữa những tiếng chửi bới của những người lao động, những tiếng la hét chói tai của những gã bán hàng bên những thùng thịt lợn, những tiếng hát bằng giọng mũi của những người hát rong, hát những bài hát về Donovan Rossa, hoặc một bản ballad về quê hương của chúng tôi. Những âm thanh này đã đi vào lòng và chi phối tâm trí tôi. Tôi nghĩ rằng mình đã quên đi cái cảm giác nhớ chị của Mangan. Tên của cô ấy chợt vang lên trên môi tôi như những lời cầu nguyện mà chính tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Đôi mắt tôi thường rưng rưng (tôi không biết tại sao) và đôi khi nỗi nhớ trong tim tôi như muốn trào ra ngực. Tôi không nghĩ nhiều về tương lai, và tôi cũng không biết liệu tôi có bao giờ nói chuyện với cô ấy hay không, hoặc nếu tôi nói chuyện với cô ấy, làm thế nào tôi có thể bày tỏ với sự tôn thờ, nỗi yêu thương và nhớ nhung của tôi khi tôi trong tâm trạng bối rối như thế này. Tôi thấy mình giống như một cây đàn hạc và những lời nói và cử chỉ của cô ấy giống như những ngón tay chạy trên dây đàn.
Một buổi tối, tôi đi vào phòng khách phía sau, nơi vị linh mục đã chết. Đó là một buổi tối mưa mịt mù và không có một tiếng động nào trong nhà. Qua một trong những tấm kính vỡ, tôi nghe thấy tiếng mưa rơi xuống đất, những hạt nước nhỏ li ti không ngừng vờn trên những luống đất khô cằn. Một ngọn đèn xa hay một cửa sổ sáng nào đó hắt bóng vào phòng tôi. Tôi rất biết ơn vì tôi chỉ có thể nhìn thấy mọi thứ lờ mờ. Tất cả các giác quan của tôi dường như muốn nổ tung, tôi ấn hai lòng bàn tay vào nhau cho đến khi chúng run lên, và nhiều lần thì thầm: Hỡi tình yêu! Hỡi tình yêu!
Cuối cùng cô ấy đã nói chuyện với tôi.
Khi cô ấy nói những lời đầu tiên với tôi, tôi đã rất bối rối không biết phải trả
lời như thế nào. Cô ấy hỏi tôi rằng tôi có đến lễ hội Araby không. Tôi quên mất
việc trả lời cô ấy là có hay không. Cô ấy còn nói rằng: Nó sẽ là một khu chợ lộng
lẫy, cô ấy rất thích đi.
"Vậy tại sao cô không đi?" Tôi hỏi.
Trong khi trả lời tôi, cô ấy xoay một chiếc vòng tay bằng bạc quanh cổ tay của mình. Cô không thể đi, vì sẽ có một cuộc tĩnh tâm vào thời gian đó trong tu viện. Em trai cô và hai cậu con trai khác đang giành nhau những chiếc mũ, còn tôi thì ở một mình trên lan can. Cô cầm một trong những chiếc trâm cài, cúi đầu về phía tôi. Ánh sáng từ ngọn đèn đối diện với cửa nhà chiếu vào đường cong trắng ngần trên cổ cô ấy, làm cho mái tóc của cô sáng lên bồng bềnh, và rơi xuống mơn trớn dịu dàng đôi bàn tay của cô ấy trên lan can. Ánh sáng rơi xuống một bên váy của cô làm hiện lên viền trắng của chiếc váy lót bên trong khi cô đứng bên lan can.
"Nó tốt cho bạn", cô ấy nói.
"Nếu tôi đi, Mình sẽ mua tặng cô một cái gì đó", tôi nói.
Vô số người, vô số việc đã chi phối suy nghĩ của tôi, nhưng tôi đã loại bỏ nó ra khỏi đầu óc. Tôi không muốn có một hành động hay ý nghĩ gì xen kẽ suy nghĩ của tôi dành cho cô ấy. Ở trường hay ở nhà, ban ngày hay ban đêm, hình ảnh của cô ấy cũng hiện diện trong tâm trí tôi. Những âm tiết của từ Araby đã mê hoặc tôi. Tôi xin nghỉ phép để đi chợ vào tối thứ bảy. Dì tôi đã rất ngạc nhiên, và hy vọng đó không phải là một vụ Tam điểm nào đó. Tôi đã trả lời một số câu hỏi trong lớp. Tôi nhìn khuôn mặt của thầy tôi chuyển từ hòa nhã sang nghiêm nghị; ông ấy hy vọng tôi không lơ đãng. Tôi không thể gắn kết những suy nghĩ vẩn vơ của mình lại với nhau. Tôi hầu như không có chút kiên nhẫn nào đối với công việc quan trọng của cuộc sống mà giờ đây ý nghĩ của tôi nằm giữa tôi và mong muốn của tôi, đối với tôi công việc dường như chỉ là trò chơi của trẻ con, trò chơi của một đứa trẻ đơn điệu xấu xí.
Vào sáng thứ bảy, tôi nhắc chú tôi rằng
tôi muốn đi chợ vào buổi tối. Ông ta đang loay hoay ở hành lang, tìm cái chổi
dài, trả lời tôi cụt lủn:
"Vâng, cậu bé, tôi biết rồi".
Khi ông ấy ở trong sảnh, tôi không thể vào phòng khách phía trước hay nằm bên cửa sổ. Tôi dở khóc dở cười rời khỏi nhà và đi chầm chậm về phía trường. Không khí nặng nề và trái tim tôi chất đầy những âu lo. Khi tôi về nhà ăn tối, chú tôi vẫn chưa về nhà. Vẫn còn sớm. Tôi ngồi nhìn chằm chằm vào đồng hồ một lúc và khi tiếng tích tắc của nó bắt đầu làm tôi khó chịu, tôi rời khỏi phòng. Tôi leo cầu thang lên căn phòng trên gác. Căn phòng cao, lạnh lẽo, trống trải, u ám nhưng tôi có thể tự do hát lớn. Từ cửa sổ phía trước, tôi nhìn thấy những người bạn của tôi đang chơi đó đây trên đường phố. Tiếng la hét của họ truyền đến tôi yếu dần và không rõ ràng. Tôi dựa trán vào tấm kính mát lạnh, nhìn sang ngôi nhà tối nơi cô ấy sống. Tôi có thể đã đứng đó cả tiếng đồng hồ, không nhìn thấy gì ngoài cô gái mặc áo khoác nâu do trí tưởng tượng của tôi, lén chạm một cách kín đáo dưới ánh đèn nơi chiếc cổ cong, bàn tay trên lan can và đường viền bên dưới chiếc váy.
Khi tôi xuống cầu thang, tôi thấy bà
Mercer đang ngồi bên đống lửa. Bà là một người phụ nữ già dặn, xinh đẹp, quả phụ
của một tiệm cầm đồ. Bà đã thu thập những con tem qua sử dụng cho một số mục
đích ngoan đạo. Tôi phải ngồi nghe những tán gẫu của mọi người khi uống trà. Bữa
ăn kéo dài hơn một tiếng đồng hồ mà chú tôi vẫn chưa đến. Bà Mercer đứng dậy định
đi: bà xin lỗi vì không thể đợi lâu hơn được nữa. Đã hơn tám giờ và bà không muốn
ra ngoài muộn, vì không khí ban đêm không tốt cho sức khỏe của bà. Khi bà ấy đi
rồi, tôi bắt đầu đi lên và xuống phòng, với đôi tay nắm chặt chặt. Dì tôi nói:
"Dì e rằng cháu không thể đi chợ đêm nay rồi. Là ý của Chúa".
Vào lúc chín giờ, tôi nghe thấy tiếng
chìa khóa của chú tôi ở cửa đại sảnh. Tôi nghe thấy ông nói chuyện với chính
mình và nghe thấy giá treo áo rung chuyển dưới sức nặng của chiếc áo khoác
ngoài . Tôi có thể cảm nhận hết những dấu hiệu này. Khi ông ấy đang ăn tối giữa
chừng, tôi xin ông cho tiền tôi đi chợ. Ông ta dường như đã quên.
"Mọi người sắp đi ngủ rồi", ông nói.
Tôi không cười nổi. Dì tôi nói với ông ấy
một cách hăng say:
"Anh không thể đưa tiền cho cháu và để nó đi đến chợ được. Anh đã đến quá muộn".
Chú tôi nói rằng ông rất tiếc vì đã quên mất. Ông ấy nói rằng ông ấy luôn tin vào câu nói của người xưa: Tất cả công việc và không có trò chơi khiến Jack trở thành một cậu bé buồn tẻ. Ông ấy hỏi tôi sẽ đi đâu và khi tôi nói với ông ấy lần thứ hai, ông hỏi tôi có biết Cuộc chia tay của người Ả Rập với chiến mã của ông ấy không? Khi tôi rời khỏi bếp, Ông ấy đã kịp đọc lại những dòng mở đầu của tác phẩm cho dì tôi nghe.
Tôi cầm chặt một đồng hai silinh trong tay
khi sải bước trên phố Buckingham về phía nhà ga. Cảnh tượng đường phố tấp nập
người mua bán và đổ xăng làm cho tôi nhớ mục đích của cuộc hành trình. Tôi ngồi
vào toa hạng ba của một chuyến tàu vắng vẻ. Sau một khoảng thời gian dừng lại,
đoàn tàu chậm rãi rời ga. Nó len lỏi giữa những ngôi nhà hoang tàn và dọc theo
một dòng sông lấp lánh. Tại nhà ga Westland Row, một đám đông người dân dồn đến
cửa toa tàu; nhưng những người khuân vác đã bảo họ quay trở lại, nói rằng đó là
chuyến tàu đặc biệt dành cho chợ. Tôi vẫn một mình trong khoang. Vài phút sau,
đoàn tàu chạy đến bên cạnh một sân ga gỗ. Tôi đi ra đường và nhìn thấy mặt đồng
hồ sáng đèn đã là 10g kém 10. Trước mặt tôi là một tòa nhà lớn với cái tên trên
tấm biển hiệu đầy ma thuật. Tôi không thể tìm thấy bất kỳ lối vào nhà nào và
tôi luôn sợ rằng khu chợ sẽ đóng cửa, tôi nhanh chóng đi vào qua một cửa quay,
đưa một tờ shilling cho một người đàn ông mang một vẻ mặt mệt mỏi. Tôi thấy
mình đang ở trong một hội trường lớn được bao bọc bởi một phòng trưng bày cao bằng
một nửa chiều cao của nó. Gần như tất cả các gian hàng đã đóng cửa và phần lớn
của hội trường chìm trong bóng tối. Tôi nhận ra một sự im lặng như bao trùm khắp
nhà thờ sau buổi lễ. Tôi rụt rè bước vào trung tâm chợ. Một vài người đang tụ tập
về các quầy hàng vẫn còn mở. Trước một tấm rèm, trên đó có dòng chữ Caf
Chantant được viết bằng đèn màu, có hai người đàn ông đang đếm tiền trên một
cái quầy rượu. Tôi có thể nghe thấy tiếng kêu leng keng của những đồng tiền.
Tôi nhớ lại những khó khăn và lí do tôi đến đây, tôi đi qua một trong những
gian hàng và xem xét những chiếc bình sứ và bộ ấm trà có hoa. Trước cửa quầy
hàng, một cô gái trẻ đang nói và cười với hai quý ông trẻ tuổi. Tôi chú ý đến
giọng tiếng Anh của họ, nhưng chỉ nghe một cách mơ hồ cuộc trò chuyện.
"Ồ, tôi chưa
bao giờ nói những điều như vậy!"
"Ồ, nhưng bạn
đã làm!"
"Ồ, nhưng tôi
đã không!"
"Cô ấy không
nói vậy sao?"
"Đúng. Tôi đã
nghe cô ấy."
"Ồ, có một... fib!
Nhìn thấy tôi, cô gái trẻ bước đến và hỏi tôi có muốn mua gì không. Giọng cô ấy không hào hứng gì. Cô ấy dường như chỉ nói chuyện với tôi vì nghĩa vụ. Tôi chỉ nhìn lướt qua những chiếc chum lớn đứng như những người lính gác phía ở hai bên lối vào tối tăm của quầy hàng và lẩm bẩm: "Không cám ơn".
Cô gái trẻ đổi vị trí của một trong những chiếc bình và quay lại chỗ hai người đàn ông trẻ tuổi. Họ bắt đầu nói về cùng một chủ đề. Một hoặc hai lần cô gái trẻ liếc nhìn tôi qua vai.
Tôi nán lại trước quầy hàng của cô ấy, mặc dù tôi biết tôi không quan tâm gì đến những món hành trên quầy hàng của cô ấy, chỉ là xem một chút lấy lệ mà thôi. Sau đó, tôi từ từ quay đi và đi xuống giữa khu chợ. Tôi thả hai đồng silinh trong tay vào túi cùng với đồng sáu xu trong túi của mình. Tôi nghe thấy một giọng nói từ phòng trưng bày rằng đèn đã tắt. Phần trên của hội trường lúc này đã hoàn toàn tối đen.
Nhìn vào bóng tối, tôi thấy mình như một sinh vật bị điều khiển và chế nhạo bởi sự phù phiếm, mắt tôi rực cháy vì đau khổ và tức giận.