Với 50 năm văn học
hải ngoại, Trương Vũ (tên thật Trương Hồng Sơn) là một tên tuổi thành phần
nhưng không hẳn thường trực một cách liên tục. Đang biên soạn về Văn học Hải
ngoại, chúng tôi rất thích thú khi được đọc những bài viết trong Đuổi Bóng
Hoàng Hôn được ông thân tình gởi tặng.
Trương Vũ phân
tích văn chương, trong khi chúng tôi ghi nhận lịch sử định hình và sinh hoạt.
Chúng tôi từng theo dõi sinh hoạt văn học hải ngoại, biết Trương Vũ qua các tạp
chí Hợp Lưu, Văn Học có thời ông làm cố vấn hoặc chủ biên, Đối Thoại (chủ bút,
1993-1994) và để ý tới ông khi theo dõi tạp-chí The Vietnam Review (1996–1997)
- ông là đồng chủ biên với Huỳnh Sanh Thông và Hoàng Ngọc Hiến cũng như đồng chủ
biên với Wayne Karlin, Lê Minh Khuê thực hiện tuyển tập truyện ngắn The Other
Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers (Curbstone
Press, 1995) gộp thơ văn về chiến tranh của 3 phía Hoa-Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và
Cộng sản Hà-Nội. Tôi cũng như ông từng tham gia diễn đàn Talawas và cộng tác với
Hợp Lưu, Văn Học, Văn, Trăm Con, v.v. (và cũng dạy học, lập gia đình và sinh sống
ở Nha Trang một thời gian rất ngắn so với người “bản xứ” Trương Vũ).
Đuổi Bóng Hoàng
Hôn (Nhân Ảnh, 2019) gồm những tiểu luận đánh dấu những giai đoạn sinh hoạt báo
chí và đóng góp cho văn học hải ngoại bên cạnh những tùy bút về quê nhà, các Thầy
Cô, học trò cũ và bạn hữu. Như tựa sách chung, gần như trong tất cả 20 bài viết
Trương Vũ đều ít nhiều hoài vọng và tham chiếu cố hương và thời xưa, trước. Ông
muốn đuổi được bóng hoàng hôn nhưng thú nhận là khó: “Rất nhiều kỷ niệm đã giúp
tôi trưởng thành. Không phải trưởng thành trong cái nghĩa chồng chất thêm tuổi
tác, mà trong cái nghĩa hài hòa với cuộc đời” (tr. 14); “Mỗi người trong chúng
ta đều có một Sorrento, để về lại trong hồi tưởng. Dù có lẫn lộn với bao cảm
xúc trái nghịch nhau, khi về lại, ít nhiều chúng ta cũng tìm được ở đó một gốc
để nghỉ ngơi” (tr. 204) đồng thời ông cũng tình thực “sống ở Mỹ hơn nửa đời người.
Rất khó để nói rằng nước Mỹ không là một quê hương mới” (tr. 19).
Trên cái nền “bóng
hoàng hôn” là những chân dung và sinh hoạt văn học, từ nhóm Sáng Tạo của miền
Nam đến các phong trào đối kháng ở miền Bắc và phản kháng theo “Đổi mới” sau
1987, từ tiền bối Cung Giũ Nguyên đến Mai Thảo, Võ Phiến và các nhà văn ở hải
ngoại như Võ Đình, Cao Xuân Huy, Phạm Cao Hoàng, Phùng Nguyễn, Đinh Cường, Nguyễn
Minh Nữu, v.v… Trong bài này, chúng tôi ghi nhận những phân tích, lý giải liên
quan đến văn học hải ngoại.
- Chiến Tranh
Việt Nam, Văn Học Việt Nam Hải ngoại và Phía Bên Kia Thiên Đường
Bài viết về ba đề
tài, tựu trung là văn học trong liên hệ trong-ngoài, người và ta, bảo thủ và
khai phóng.
Trương Vũ đánh giá
tạp chí Văn Học: “có nhiều ảnh hưởng nhất trong việc nuôi dưỡng và phát triển
văn học và cả văn hóa Việt Nam nói chung. Trong suốt hơn một thập niên, Văn Học
là nơi gặp gỡ của rất nhiều nhà văn và học giả để nuôi dưỡng lòng đam mê của họ
cho văn chương và nghệ thuật mà ở đó liên hệ khá phức tạp giữa những người Việt
có khuynh hướng hay quá khứ chính trị khác nhau khả dĩ tìm được một hòa hợp.
Văn Học cũng đã tạo được cảm hứng cho giới trẻ Việt lớn lên trong các quốc gia
Tây phương phát triển năng khiếu của họ để trở thành nhà văn , nghệ sĩ, hay học
giả của thế giới Việt ngữ hay văn hóa Việt…” (tr. 83). Ngoài ra, trên tạp-chí
Văn Học đã khởi/gây một số tranh luận văn-học và văn học-chính trị như về
văn-chương ghetto, văn học hải ngoại, thơ Con cóc,... Và sau các số 49 và 50
(tháng 3, 4-1990) về “văn chương phản kháng” ở trong nước, Văn Học đã trở nên mục
tiêu đánh phá của những tờ báo coi hiện tượng này chỉ là phản kháng giả, hay là
một đòn đánh phủ đầu của Nhà nước Việt-Nam đối với giới cầm bút cả trong cũng
như ngoài nước – với sự ra mắt tiếp theo của tuyển tập Trăm Hoa Vẫn Nở Trên
Quê-Hương (phụ đề “Cao trào văn-nghệ phản kháng tại Việt-Nam 1986-1989”; Lê Trần,
9-1990). Trương Vũ bàn về hiện tượng này và ghi nhận rằng “Dầu sao, càng ngày
càng có nhiều người ở hải ngoại tin vào khả năng hàn gắn của văn chương. Đối với
họ, văn chương là nơi ẩn náu đẹp nhất cho những người có quá khứ khác nhau
nhưng cũng muốn nhìn tới trước có thể hòa hợp với nhau...”” (tr. 85).
Ông cũng nói đến
“một nỗ lực đáng kể khác, rất cấp tiến và có ảnh hưởng lâu dài hơn, là sự ra đời
cùa tạp chí Hợp Lưu ở California… ”.
Nhìn lại những biến
cố chính trị và hiện tượng văn học vừa kể, Trương Vũ tin rằng “... giấc mơ thật
sự của một nhà văn phải là sáng tạo từ chất liệu của đời sống, bao gồm cả những
thảm kịch, một cái gì mới và đẹp cho đời sống” (tr. 85).
- Nhìn lại phong
trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam từ 1986 đến 1989
Trương Vũ nhìn nhận
các phong trào văn học hầu hết đều là sự phản kháng của Ngòi Bút chống Bạo Lực.
Theo Trương Vũ, Ngòi Bút và Bạo Lực là hai thứ không thể cùng sống chung với
nhau mà không làm biến thái hoặc triệt tiêu nhau: “Ngòi Bút thật mạnh thì Bạo Lực
triệt tiêu, Ngòi Bút mạnh vừa phải thì Bạo Lực chỉ biến thái và ngược lại …”
(tr. 29). Ông nhận xét về phong trào phản kháng thời Đổi Mới: “Ngoài Nguyễn Huy
Thiệp và Phạm Thị Hoài, không có nhiều nỗ lực lớn để làm mới văn học nghệ thuật
trên căn bản nghệ thuật thuần túy. Và, cái điểm đáng chê trách nhất đối với
phong trào này, là với con số gần 80 người làm nghệ thuật có tài năng, họ vẫn
còn giới hạn cái nhìn của họ về một đất nước như thể vẫn còn bị chia đôi như
trước 1975” (tr. 28).
Từ đó, ông đặt vấn
đề “Ngòi Bút và Bạo Lực” cho người làm văn học ở hải ngoại: “ Nếu Ngòi Bút đủ mạnh
để làm thăng hoa cuộc đời thì Bạo Lực tự nó sẽ đi ra khỏi cuộc đời. “Mạnh” ở
đây không phải với cái nghĩa “trong thơ có thép” mà với cái nghĩa có nghệ thuật, có sáng tạo,
có sức thu hút, có thuyết phục, có tình người... Sức mạnh của ngòi bút chúng ta
ở hải ngoại như thế nào? Về lượng chắc nhiều lắm. Về phẩm, văn chương của chúng
ta có mới không? Nội dung của nó có chứa đựng được những bức xúc, những trăn trở,
những khúc mắc, những suy tư thời đại của chúng ta, có khai mở cái thẩm mỹ, cái
tầm nhìn về tương lai của chính chúng ta và những thế hệ sau này? (…). Khi nghĩ
đến Văn học nghệ thuật chúng ta buộc phải nghĩ đến những giá trị lớn (…) Trước
khi dứt lời, tôi xin nói đôi điều liên quan đến người đọc. Ở hải ngoại sống hết
lòng với văn chương khó lắm.”...
“Khi nói về Ngòi
Bút và Bạo Quyền, hay Bạo Lực, điều mà tôi nghĩ đến và mong rằng chúng ta sẽ
không để cho xẩy ra ở hải ngoại (…) Ðó là: một thái độ thờ ơ, mệt mỏi trước
sách vở. Tôi muốn nói: sách vở của văn học nghệ thuật Việt Nam. Thái độ đó,
thưa quý vị, có khả năng bẻ gãy Ngòi Bút
còn mạnh hơn cả Bạo Lực” (tr. 31, 32).
- Người Đọc Sách Với
Cái Thật, cái Giả trong Văn
Những năm
1989-1980 ở hải ngoại nổi lên những tranh luận có hay không có một phong trào
văn chương phản kháng ở trong nước. Trong bài này, Trương Vũ “quy tụ quanh cái
liên hệ giữa những sáng tác văn học với những người đọc sách cùng với vị trí và
khả năng của họ trong việc nhận diện cái thật, giả trong văn”. Ông muốn phá “luận
cứ khá phổ biến cho rằng phong trào Nhân Văn Giai Phẩm vào năm l956 mới đích thực
là một phong trào phản kháng vì có tính cách tự phát, trong khi đó phong trào
‘văn chương phản kháng’ được bàn đến ở thời điểm này chỉ là một phong trào văn
nghệ cởi trói do Nguyễn Văn Linh khởi động, sách của họ được phép xuất bản, họ
vẫn được tiếp tục ăn lương, và chưa có ai ở tù”, ông muốn chứng minh “cái luận
cứ cho rằng phong trào Nhân Văn Giai Phẩm có tính tự phát để dựa vào đó phủ nhận
tính phản kháng của phong trào văn chương hiện tại là một luận cứ không phản ảnh
sự thật”. (tr. 51, 54)
Ông nói đến dư luận
phủ nhận “văn học Đổi mới” ở trong nước : “Cái khó khăn là sự can đảm nhận diện
những sự việc như vậy trong khi nó đang xảy ra. Ðó là điều mà chúng ta đang làm
ở đây khi cố gắng nhận diện những gì đang thực sự xảy ra trên quê hương. Và đặc
biệt, trong trường hợp này, cố gắng nhận diện và đánh giá một dòng văn chương tại
quốc nội. Nhận diện và đánh giá một cách nghiêm chỉnh và can đảm”. Theo ông, “để
đánh giá cái dòng văn chương đó, để nhận diện những gian dối đó trong văn, anh
phải trực tiếp nhìn vào tác phẩm của họ. Và, phải chính anh, người đọc sách, bằng
khối óc của anh, bằng con tim của anh, anh đánh giá được cái thông minh hay ngu
xuẩn của người viết và cảm nhận được cái xúc động chân thành hay giả dối của họ”
(tr. 56, 59)
Để nâng cao dân
trí, ông cho rằng phương cách tốt nhất vẩn là “đọc sách và tự do lựa sách để đọc”,
“người đọc sách phải trực diện với chính tác phẩm”, và ông kết luận: “Ðối với
người Việt Nam đang sống đời lưu vong ở hải ngoại, trong một hoàn cảnh mà những
nghi kỵ đối với tất cả những gì xuất phát từ quê hương vẫn còn quá lớn, thì những
sáng tác văn chương phải nằm trong số những sản phẩm tinh thần được dụng đến
trước tiên. Bởi vì, cái gian dối ở đâu tôi không dám nói, cái gian dối trong
văn rất khó đánh lừa được ai” (tr. 60)
Các vận động
chính-trị qua bốn thập niên đầu từ tích cực đến tiêu cực, từ chính thống đến tà
đạo, cũng đã ảnh-hưởng đến sinh hoạt văn-học: có ảnh-hưởng tích cực cũng như xấu
đến sức sáng-tác, đến nội-dung - thực tế và không tưởng.
Văn-chương phản
kháng từ trong nước từ thời chính sách Đổi Mới, đã tốn rất nhiều bút giấy của
nhiều nhà văn và báo-chí hải-ngoại – đã có sự phủ nhận phong trào văn chương phản
kháng (phản kháng “quốc doanh”) ở trong nước và rồi “Đổi Mới” đã trở thành “hiện
tượng”, có bước tới nhưng dậm chân khiến sáng-tác xuống dốc thê thảm dù nhờ đó
đã có vài tác phẩm chứng tỏ có “thực chất” đổi mới về nội dung và văn chương. Hải
ngoại cũng vì ở trong “đổi mới” mà người ủng hộ hoặc chào đón, bị phỉ báng đủ
điều, trong số bị đích danh.
Hải ngoại đang “dầu
sôi lửa lỏng” thì tạp-chí Hợp Lưu với chủ biên Khánh Trường ra mắt, tiêu biểu
cho khuynh-hướng không phân biệt nguồn gốc, nhân thân qua con đường văn-chương
– thường bị gán nhãn “hòa hợp hòa giải”. Trong số ra mắt tạp-chí này vào tháng
10-1991, Khánh Trường cho biết: “Chúng tôi quan niệm rằng, tác phẩm, dù rằng đứng
trên quan điểm nào, nếu thực sự giá trị, thực sự đáp ứng được lòng mong muốn của
đa số độc giả thầm lặng, thì dứt khoát đó phải là tiếng nói nhân bản, tiếng nói
của lòng lương thiện. Văn học nghệ thuật không chỉ đáp ứng cho hiện tại, nó sống
mãi với thời gian. Chế độ chính trị nào rồi cũng qua đi, cái còn lại sẽ vẫn là cái
cận nhân tình, cái đẹp, cái tốt,...”. Rõ, đây cổ võ cho một văn nghệ tự do,
trong nội dung cũng như kỹ thuật có thể so sánh với phần lớn tác phẩm của Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh – đối nghịch với thứ “văn chương”
thù hằn, cuồng chống đến cùng hoặc “đổi mới” theo chỉ thị.
- Lời Bạt Cho Chủ
Đề Yêu Của Hợp Lưu
Trương Vũ đã phân
tích 27 truyện ngắn viết về chủ đề “Yêu” trên Hợp Lưu số 68 và 69 (2003), và
nhìn chung ông thấy có “nỗ lực sáng tạo của các tác giả. Văn phong có mới,
không khí có mới, nội dung có mới …”. Tác giả có trong và ngoài nước nhưng đa số
là phái nữ, và nam cũng như nữ đều đã tốt nghiệp cấp đại học. Trương Vũ nhìn ra
viết về Tình yêu nhưng “ở đây đa số là thảm kịch, hay là thân phận. … không thấy
một ‘happy ending’ cho tình yêu, hay cả cho tình dục”, phần lớn các truyện nói
đến cái buồn hoặc bi đát của thân phận người nữ trong tình yêu hoặc đời sống
gia đình, nghề nghiệp. Cuối bài, ông cho rằng trong khung cảnh ngày càng ít người
đọc ở ngoài nước, nỗ lực của 26 tác giả này “không bình thường” vì theo ông
“văn chương chỉ được đánh giá bằng chất lượng. Nỗ lực này có chất lượng”(tr.
155, 156, 169).
Một phần Đuổi Bóng
Hoàng Hôn viết về các tác giả, có chấm phá và cả phân tích.
- Vài Suy Nghĩ Tuyển
Tập Mây Chó của Võ Đình
Trương Vũ đọc Mây
Chó như để “bắt gặp lại những nét đặc sắc” của Võ Đình: “tôi luôn nhận thấy ba
điểm nổi bật trong văn chương của ông. Thứ nhất, ông viết bằng tất cả những
rung động, hiểu biết, suy tư, kinh nghiệm của một con người toàn diện với tài
năng và vốn sống rất đặc thù của ông. Ông đem tất cả vào tác phẩm một cách tự
nhiên, đúng lúc, đúng chỗ, không thừa không thiếu. Qua văn ông, người đọc thấy
rõ một cá tính rất mạnh, mạnh trong cả ba tính Việt, Pháp, Mỹ – phát sinh từ
hoàn cảnh sống đặc biệt của ông – về cả bề dày của văn hóa cùng những thói quen
trong ứng xử. Thứ hai, ông tỏ ra có một ham thích đặc biệt và đã rất thành công
khi dựng chuyện hay truyện từ những sự việc hay nhân vật rất bình thường hay tầm
thường trong đời sống. …
Sau cùng, dù viết
truyện hay chuyện, không khí nghệ thuật, đặc biệt không khí hội họa luôn luôn
bao trùm văn chương của Võ Ðình (tr. 136).
- Phùng là
Phùng Nguyễn và cái chết đột ngột của nhà văn, từng là Chủ bút của Hợp Lưu một
thời gian ngắn - thời có số về chủ đề “Yêu”. Trương Vũ đã đặc biệt chú ý đến
truyện Ca Bin: “Ca bin của Phùng Nguyễn được viết với một cấu trúc rất lạ, một
phối hợp của tân hình thức và hậu hiện đại. Một bài thơ tiếng Anh với lời chuyển
ngữ cố ý làm khác và cả một màn hình điện toán đã được sử dụng thật thành công
cho cấu trúc này. Truyện ngắn của Phùng Nguyễn có khả năng mở đầu cho một phong
trào viết truyện mới. Ở đây không có thảm kịch. Nó lẫn lộn cuộc đời thực với cuộc
đời trong mơ, đuổi bắt lẫn nhau, và người đọc khó phân biệt được cái mơ và cái
thực. Đó là cái đẹp tuyệt vời của một tình yêu tự nhiên và rộng mở, không ràng
buộc, không tự nhốt mình lại như trong một ca bin” (tr. 177).
- Huy viết
về Cao Xuân Huy và những gặp gỡ đầu ở miền Thượng Pleiku trước 1975 và lần cuối
tiễn biệt nhà văn vể chốn vĩnh hằng.
- Lá Mùa Thu
viết về họa sĩ và nhà thơ Đinh Cường - trong 3 năm sau cùng đã đăng 875 bài thơ
trên blog của Phạm Cao Hoàng : “Họa sĩ Đinh Cường đã cống hiến cho hội họa Việt
Nam một tài sản lớn. Nhà thơ Đinh Cường đã làm thơ rất nhiều, như một cách thể
hiện cái vi tế và phong phú của đời sống, rất đặc thù”. Trương Vũ cũng là họa
sĩ, ông tỏ ra đồng cảm và đồng tình với các họa sĩ-nhà văn thơ như Đinh Cường,
Võ Đình,… Ông hiểu Đinh Cường khi viết: “Người vẽ tranh, người làm thơ Đinh Cường
chắc chắn có được một niềm hạnh phúc lớn khi bằng nổi đam mê, tài năng, trí
thông minh, và sức làm việc kiên trì để tạo nên những tác phẩm để đời, ưng ý.
Niềm hạnh phúc đó không mấy ai khác có được. Tuy nhiên, khi tập tểnh bước vào
cái thế giới của nghệ thuật, tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng mọi thứ không hẵn
đơn giản như thế. Không hẵn chỉ có cái hạnh phúc đó. Nó còn có đau đớn, dằn vặt.
… Đam mê càng lớn, ước vọng càng cao, càng dễ thấy cái giới hạn của sức lực
mình. Ráng tạo một tác phẩm như ý rất thường khi không khác như lao đầu vào một
cuộc chiến của nội tâm. Dù xung quanh có bao người thân yêu, có bao bạn bè tốt,
cuối cùng cũng chi có một mình mình thôi phải đương đầu với nó. Nỗi cô đơn rất
khó tả” (tr. 183).
Đọc “Thơm Mãi
Mùi Hương” của Phạm Cao Hoàng, Trương Vũ đã nghĩ “Thơ, văn, âm nhạc, nghệ
thuật, cùng với những đóng góp và cách đóng góp như nói trên, đã giúp làm cho mảnh
đất mà chúng ta đang sống ở đây luôn còn thơm mãi mùi hương. Không có nó, đất cằn
cỗi và trơ trẽn” ” (tr. 190). Cũng như đã dùng con mắt nhà họa để “đọc” PCH:
“Khi đọc những dòng thơ PCH viết cho cha mẹ, cho chị, cho người thân, tôi có thể
tưởng tượng ra hình ảnh của những con người này. Hoàng không vẽ chân dung,
nhưng qua vài dòng cảm xúc, tôi hình dung ra được ánh mắt của họ, nhận ra được
cái bên ngoài mộc mạc đó chất chứa bao tình thương nào, bao hy sinh, bao khắc
khoải nào” (tr. 186)
Trong bài viết về Cung
Giũ Nguyên Trương Vũ cho rằng tác phẩm Le Boujoum dù đã viết từ năm 1980 ở
trong nước cũng “xứng đáng để trở thành một đề tài tranh luận nghiêm túc về văn
chương hậu hiện đại của những nhà văn Việt Nam, dùng bất cứ ngôn ngữ nào để
hoàn thành tác phẩm” (tr. 149). Thiển nghĩ Boujoum mang những suy tư triết lý
mang tính tổng hợp/synchrétisme cũng như tính độc đáo Cung Giũ Nguyên. Cung Giũ
Nguyên cho rằng “mỗi người có một cách đọc riêng, mỗi người tìm trong một văn bản
điều gì người ấy muốn gặp (…)”, có thể Thái Huyền “chỉ là một sự nhại lại, một
sự bắt chước vụng về và phạm thánh sách của Moise” và cũng có thể “Thái Huyền
nói đến ngôn ngữ, lưu ý đến sự bất cập tự tại của ngôn ngữ và sự cần thiết của
ngôn ngữ…” (Đại Nam, 1994, tr. VIII, X). Tóm, không gian và nội dung, sứ điệp
truyền tải của Thái Huyền không dễ đọc / tiếp nhận và khá lựa chọn độc giả!
- Vị trí của Sáng
Tạo trong sự phát triển văn học miền Nam sau 1954
Cách xuất hiện của
Sáng Tạo được Trương Vũ xem là “điểm đổi hướng” trong sinh hoạt văn học nghệ
thuật miền Nam. “Trong suốt 31 số liên tiếp, Sáng Tạo đã không ngừng cổ võ cho
những thí nghiệm và khám phá trong nghệ thuật”. để đặt câu hỏi cho hôm nay: “Ðất
nước chúng ta ngày nay đã thống nhất và trải qua gần bốn mươi năm thanh bình,
theo cái nghĩa không có bắn giết nhau bằng súng đạn. Qua cái thời gian dài đó,
văn học chúng ta, ở trong hay ngoài nước, đã vượt đi những chặng đường nào?”.
Tuy vậy, TV đã tinh tế khi nhận định “Một khía cạnh tiêu cực của nhóm Sáng Tạo
là sự thiếu vắng những cây viết nữ nòng cốt, khác với trường hợp của VHNN [Văn
Hóa Ngày Nay], cũng như của các tạp chí văn học khác xuất bản về sau này. Bên cạnh
đó, mặc dầu cổ võ cho những trào lưu tiến bộ, những sáng tác văn học ở Sáng Tạo
vẫn chưa bao gồm được những sắc thái liên hệ đến người nữ ở những khía cạnh có
tính thời đại, xã hội và trí thức, như thấy rõ trong văn học Nhật Bản từ thế kỷ
19” (tr. 131).
Trở lên là một số
quan điểm và nhận xét của Trương Vũ về văn học và văn học hải ngoại. Phần chúng
tôi có nhận xét là văn-học hải-ngoại có một đặc điểm có tính bao trùm là “tính
chính-trị" vừa là động cơ, là lý do tồn tại, hiện hữu, vừa là mục-đích. Nếu
không tranh đấu tiêu diệt chủ nghĩa cộng-sản và những thế lực làm kiệt quệ đất
nước, làm dân tộc mất quyền tự chủ thì là tranh đấu, vận động cho tự do dân chủ
và quyền làm người. Mà nhân quyền và quyền dân sự thì phải đấu tranh mới có.
Lưu vong vì đất bằng nổi sóng, vì xã-hội nhiểu nhương, khủng hoảng mà bản thân
không được quyền hay không thể ra tay; lưu vong do đó là để sống còn đồng thời
để thực hiện những mục-đích và công tác này dưới nhiều hình-thức mà văn-chương
là một. Di tản, tị nạn, lưu vong, … qua
nhiều giai đoạn, người miền Nam rồi cả nước và rồi cả những người từng theo chủ
nghĩa cộng-sản. Tất cả đã xây dựng, góp phần làm nên nền văn-học hải-ngoại. Từ
đó là chính nghĩa, có chính nghĩa khiến công tác văn-học trở thành bổn phận, có
lý do tồn tại, có nội-dung, để đi tới trước, khiến văn-học hải-ngoại khác và đối
nghịch với thứ gọi là “văn-học chính thống” nhưng thật ra chỉ là “minh họa” và
một giọng điệu “lưỡi gỗ” của trong nước.
Nhà văn Việt thường
viết vì nhu cầu... viết hoặc vì một mục đích nhưng ít thấy vì sứ mạng thực sự
văn nghệ. Văn-chương chết vì ngoài những ám ảnh, vũng lầy còn là vì văn hóa chết,
tinh thần chết, nhường chỗ cho vật chất và tính toán, tham vọng của con người.
Mà văn-chương chết sẽ đưa đến kiệt quệ tinh thần! Vậy thì văn-chương có còn là
thứ cần thiết không và cần thiết cho ai? Văn-chương có giá trị hay có thể hiện
hữu tự tại không?
Nói chung, chủ đề
tư tưởng của văn học hải ngoại lưu vong tỵ nạn không phải là khía cạnh đi tìm sự
giải phóng cho chính bản thân mình mà là giải phóng cho tập thể! Có lưu vong
vĩnh viễn, tự nguyện, có lưu lạc sống tạm xứ người, có di dân kinh tế,… nhất là
ở những địa phương đông đảo người Việt khiến có thể sống và viết bằng tiếng Việt
không cần hội nhập, nhưng cối lõi nhân sự và tâm thức của cộng đồng người Việt
hải-ngoại có tính chính-trị, là chính-trị, theo nghĩa đối kháng với chế độ và
chủ nghĩa cộng-sản ở trong nước, hoặc tranh đấu cho những lý tưởng chính-trị
muôn đời như tự do, dân-chủ và nhân bản, và đặc biệt luôn nhắm đến quê nhà và
nước Việt – có nghĩa hải-ngoại là không gian duy nhất còn lại đối với người Việt
để viết và nói lên những điều này, kể cả những người rời nước công khai và
chính thức về sau.
Chúng tôi chào đón Đuổi Bóng Hoàng Hôn của Trương Vũ là một tác phẩm hiếm hoi mang tính văn học góp phần tích cực cho việc nhận định và phê phán những sinh hoạt và biến động qua năm thập niên văn học hải ngoại luôn thực sự hiện diện.