Tuesday, September 24, 2024

3578. TRƯƠNG VŨ Tiếng sóng.

Nguồn ảnh: Pinterest

Chiều Thứ Sáu 29 tháng 5, Hoàng Ngọc Hoà, một người bạn trẻ, đón tôi với chị Hoàng Bắc từ phi trường West Palm Beach, Florida về nhà anh Võ Đình. Một căn nhà nhỏ xinh xắn xung quanh là vườn cây um tùm khá rộng. Khi theo chị Lai Hồng, người bạn đời của anh Đình, vào phòng, thấy anh nằm yên, thở mạnh, mắt nhắm. Gọi, không trả lời. Mắt không mở. Một chút cử động nơi môi. Khi nắm tay, anh bóp nhẹ. Chúng tôi nói vài lời với anh, coi như anh vẫn nghe, vẫn biết.  Và, im lặng.

Anh được đưa về nhà hôm trước, Thứ Năm ngày 28, sau thời gian nằm trong Trung tâm Phục hồi và Dưỡng lão ManorCare, từ tháng 10 năm ngoái. Mỗi ngày, chị Lai Hồng vào từ chiều, ngủ lại đêm trong đó. Chị chuyện trò, chăm sóc, kể chuyện, đọc emails, đọc sách cho anh nghe, giúp bón anh ăn. Ban ngày, chị về nhà mấy tiếng đồng hồ rồi trở lại.

Tuần trước đây, anh viết xuống vài chữ ngỏ ý muốn về nhà. Anh muốn hưởng những ngày cuối cùng trong nhà mình. Anh muốn nghe Kinh Cầu an, và Bát Nhã Tâm Kinh. Về thăm anh, ngoài tôi với Hoàng Bắc còn có Đinh Cường và Eddie Ramsburg, một học trò cũ của anh.  Hai người con gái của anh là Phượng Nam và Linh Giang, ngày mai Thứ Bảy đến. Phan Nhật Nam và vài bạn bè, bà con đến vào những ngày tới.

Tôi không nhớ chính xác lần đầu tiên tôi gặp anh Võ Đình là vào lúc nào, ở nơi nào. Nhưng tôi nhớ lúc đó anh đang nói về những bức tranh anh vẽ trong thời gian anh ở với cháu Phượng Nam khi cháu chỉ mới hai, ba tuổi. Buổi tối đó, anh ngâm Ngậm Ngùi của Huy Cận. Giọng anh mạnh, ấm. Rất đặc biệt. Không giống một giọng ngâm nào tôi đã từng nghe. Tôi cũng không nhớ là từ lúc nào anh trở thành một bạn vong niên của tôi, chắc cũng gần 30 năm. Rồi, năm sáu năm sau, anh trở thành một người thân trong gia đình. Mỗi lần anh đến, má tôi kho cho anh món cá rất đặc biệt của bà. Trong nhà tôi, anh đã ngâm rất nhiều thơ. Tôi thích nhất khi anh ngâm Tống Biệt Hành của Thâm Tâm.

Bao nhiêu biến đổi trong đời anh, đời tôi, kể từ những ngày mới quen nhau. Bao nhiêu chuyện, truyện anh đã viết. Bao nhiêu tranh anh đã vẽ. Bao nhiêu sách anh đã dịch, đã minh họa, đã xuất bản. Bao cuộc tình đến, rồi đi. Bao sóng, gió. Bao thăng, trầm! Bao lặng lẽ... Có những lúc, anh ngồi thuyết trình, nói mê man, sang sảng, vài trăm người chăm chú lắng nghe. Rồi có lúc, nhìn quanh, ngoài những bạn rất thân vốn hài hòa với cuộc đời, không biết có mấy ai gật đầu với anh.

Anh là một người khó tánh (có người gọi đùa là “khó tiền sử”), hầu như ai cũng biết. Nhưng anh cũng là một người rất dễ tính. Điều đó hầu như ai cũng biết. Chỉ khác là cái anh khó với cái anh dễ, thường không giống với cái nên dễ, nên khó trong thường tình. Với tôi, những cái khó tánh của anh đã gây nên không biết bao tranh cãi giữa anh với tôi, nhưng cũng chính từ đó mà tôi gần anh hơn, thương và kính trọng hơn. Ít nhiều, chính cái khó tánh đó đã tạo cho anh một thế giới riêng mà từ đó anh mang đến những cống hiến lớn cho văn học, nghệ thuật và cho cuộc đời.

Anh là một tác giả thành tựu, trong cả hai lãnh vực văn học và hội họa. Công trình của anh và giá trị văn học hay nghệ thuật trong tác phẩm của anh được ghi nhận và phân tích nhiều trong giới phê bình.

Võ Đình sinh năm 1933, tại Huế, rời quê hương rất sớm, vào lúc 17 tuổi, và sống luôn ở Pháp, rồi ở Mỹ. Anh chỉ về thăm Việt Nam vài lần, mỗi lần trong thời hạn rất ngắn. Rất giống hoàn cảnh của lớp trẻ Việt Nam thuộc thế hệ một rưỡi hay thứ hai của cộng đồng Việt hiện nay.

Văn của Võ Đình không dễ đọc, tranh của Võ Đình không dễ xem. Bởi luôn hàm chứa những phức tạp của đời sống, những độ sâu trong suy tưởng, và những rung động trầm lắng của con người. Đọc văn anh, xem tranh anh, hay ngồi nói chuyện với anh, chúng ta rất dễ thấy nơi con người thoạt nhìn có vẻ bình dị, chịu ảnh hưởng sâu đậm của ba nền văn hoá Việt, Pháp, Mỹ, và biểu lộ những ảnh hưởng đó một cách tự nhiên, không mặc cảm, khi khen như khi chê. Anh thích nhìn con người hay xã hội trên khía cạnh văn hóa, và nhìn sự vật, cây cỏ ở cái đẹp mà tạo hóa mang lại, dù đó chỉ là một con nhái bén hay những thứ “rau cỏ hèn mọn”.

Anh đề cao tính sáng tạo, rất dị ứng với những cách nhìn hời hợt, những cách nhìn theo thói quen, những cách lập đi lập lại mà anh cho là phát sinh từ sự lười biếng trong suy nghĩ. Anh luôn đề cao sự đam mê, hay cách sống hết lòng, cho một niềm tin, hay vì một mục tiêu nào đó, cho dù mục tiêu đó chỉ là để...chơi. Tỉ như, khi anh viết về thú chơi xe lửa của một hưu trí viên 65 tuổi. Chơi, nhưng chơi...thiệt.

Anh trân trọng công trình của người khác, nếu đó là một công trình có chất lượng hay được thực hiện hết lòng. Anh có thể nói say sưa, qua ngòi viết, hay qua những câu chuyện trao đổi với bạn bè, về tranh của Cézanne, của Gauguin, Van Gogh, hay của Đỗ Quang Em; hay bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, truyện ngắn của Võ Phiến, của Trần Vũ, bài nhận định văn học của Thụy Khuê... Nói, với tất cả sự trân trọng, như đã may mắn nhận được những món quà thật quí giá. Vào những lúc như vậy, qua những nhắc nhở có vẻ như vô tình đó, người đọc hay người đối thoại có thể chợt nhận ra sự may mắn của mình vì đã có biết bao nhiêu món quà quí giá mà đời sống đã mang lại, mà chính những người mang lại chưa chắc đã được chút gì may mắn cho họ, ngoài tài năng và lòng đam mê. Van Gogh chẳng hạn, ông cống hiến cho chúng ta bao nhiêu tác phẩm tuyệt vời, nhưng cho đến chết ông sống khổ cực, chỉ bán được một bức tranh, và cuộc đời ông là một bi kịch lớn.

Khi viết về Võ Đình, có một yếu tố nổi bật không thể không nói đến. Đó là yếu tố Việt Nam trong con người anh, biểu lộ rõ nét trong tác phẩm hay trong đời sống hàng ngày. Anh viết tiếng Anh rất giỏi, dĩ nhiên, vì anh lớn lên và sống gần như cả đời ở Mỹ. Và tiếng Pháp cũng giỏi vì anh đã học ở Pháp. Nhưng tiếng Việt của anh, khi anh viết hay khi anh nói, nếu không biết không ai dám nghĩ rằng kể từ năm 17 tuổi cho đến quá tuổi tri thiên mệnh, cho đến những ngày cuối cùng, anh chỉ sống ở Việt Nam tổng cộng có vài tháng. Không phải chỉ hay thôi, nó đạt đến phần vi tế nhất của ngôn ngữ mà những nhà văn tài hoa và khó tánh nổi tiếng về cách dùng tiếng Việt cũng phải khâm phục.

Anh mê và hiểu biết sâu sắc ca dao Việt Nam. Khi sống hay khi viết, anh thường nghĩ đến từng câu, nhập vào thật đúng lúc của nó. Chẵng hạn, sống ở Florida, nước Mỹ, nhưng khi nhìn thấy một con nhái nằm thù lu trong mấy cái lá, anh nhớ đến một câu ca dao thật rầu: Chiều chiều bắt nhái cắm câu/ Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi.

Anh hiểu biết rất rõ lịch sử Việt Nam, nhưng không chỉ dừng lại ở hiểu biết, anh sống với những thăng trầm của lịch sử. Anh cảm nhận sâu sắc về cuộc Nam tiến, nhưng không chỉ dừng lại ở nét hùng tráng về công trình mở mang bờ cõi, mà anh cảm thông thật sự tâm trạng, đời sống những con người bình thường, cô đơn, vật lộn hàng ngày với thiên nhiên, khi được đẩy vào những vùng đất xa xôi ở miền Nam đang còn rất hoang dại. Vì thế, anh đã viết với tất cả sự ngưỡng mộ chân tình truyện ngắn Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc mà anh cho là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Về lịch sử Nam tiến, anh ngưỡng mộ những chiến thắng, nhưng bên cạnh đó, anh đưa ra những trách móc tế nhị, trách móc về cách đối xử không đẹp của vua chúa Việt với những người Chiêm thất trận, như đã giết vua người, lại còn rắp tâm chiếm vợ vua người, để đến nỗi vương phi Mị Ê của Chiêm Thành, quấn chiên, lăn xuống sông tự tử.

Trong đời sống hàng ngày và trong tác phẩm, Võ Đình thường để tự mình hụp lặn vào những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại. Cách đây 36 năm, tức hai năm trước khi cuộc chiến chấm dứt, vào thời kỳ sôi động nhất, anh trở về thăm quê hương lần đầu. Trong một bài viết sau đó, anh cho biết, anh gặp một vũng nước mà anh có cảm giác như chính đó là vũng nước khi còn bé anh thường đến và đùa nghịch trên đó. Anh cũng cho biết, khi đi lại trên những con đường ở Huế mà anh từng đi lại vào những ngày thơ ấu, anh có những cảm giác rất mạnh, rất thật, như chính anh đã đụng vào những hồn ma đang đi, đang chạy xung quanh, hồn ma của những con người vô tội dìu dắt nhau chạy tán loạn vào những ngày kinh thành thất thủ gần một trăm năm trước.

Thời gian đó, ở Mỹ, anh sống trong một căn nhà cũ, trên một vùng núi ở Maryland, gọi tên là Stonevale, Thạch Lũng. Xung quanh nhà có một hàng rào dài làm bằng những miếng đá dẹp chồng chất lên nhau, do những người nô lệ làm nên từ hơn hai trăm năm trước. Tôi có đến thăm anh ở đó, vài năm sau chuyến thăm quê hương của anh. Chị Helen, người vợ Mỹ thứ nhì của anh, có kể lại, khi đón anh trở về, chị có linh cảm lạ lùng là dường như có một vài bóng ma đã theo anh từ Việt Nam trở về và đang cùng anh bước vào nhà.

Võ Đình thích sống gần thiên nhiên. Ngoài mê say vẽ, viết và đọc sách, anh thích làm lụng và nhìn ngắm cỏ cây, sống điều độ và ăn uống thanh đạm. Anh rất khỏe mạnh, hơn nhiều người cùng tuổi. Tuy nhiên, cách đây khoảng hơn hai năm, anh bỗng yếu đi hẵn. Đi không vững, rất dễ té, và mắt thường bị chói ánh sáng. Anh đi bác sĩ thuờng xuyên, có khi phải vào nằm lại trongTrung tâm Phục hồi, ban đầu ngắn hạn rồi ở dài hạn, nhưng bác sĩ không tìm ra đúng bệnh. Chỉ mới đây, giữa tháng hai, bác sĩ chuyên khoa não cho biết anh bị chứng PSP (Progressive Supranuclear Palsy), một loại suy thoái não chưa có thuốc chữa. Anh phải vào ở hẳn trong khu dài hạn. Ngày càng yếu đi.

Có nhiều người đàn bà đã đi qua đời anh, nhưng tôi nghĩ, cuộc nhân duyên sau cùng, với chị Lai Hồng, chính thức khởi đầu từ 16 năm trước đây và có thể đã bắt nguồn từ tuổi học trò, là mối nhân duyên đem lại sự bình an nhất trong đời anh. Trong cuộc nhân duyên này, anh tìm được sự chia xẻ về nguồn cội, về chữ nghĩa, về nghệ thuật, về tương kính. Và, rất khó để không nhận thấy là anh đã nhận được một chăm sóc tận tình, một sự thông cảm và kiên nhẫn gần như vượt quá khả năng của con người. Nỗi lo sợ lớn nhất của người thân, bạn bè, và cả nhân viên Trung tâm ManorCare, là chị có thể quỵ xuống trước.

Trưa Thứ Bảy, 30 tháng 5, chúng tôi dự lễ Cầu an tại nhà anh do hai ni cô Chùa Lộc Uyển chủ trì cùng với anh chị Nguyễn Trà/Thanh Trúc của Hội Phật giáo Nam Florida và một số đạo hữu. Cả gia đình Hòa đều có mặt. Sau đó, Đinh Cường và anh Diệp Bảo Chương, bạn của Cường và anh chị Võ Đình, đến. Phượng Nam và Linh Giang từ Maryland cũng đến ngay sau đó. Phượng Nam và Linh Giang là con gái của anh Đình với hai người vợ Mỹ. Cũng đã hơn 15 năm tôi mới gặp lại Linh Giang và hơn 25 năm gặp lại Phượng Nam. Các cháu không nói được tiếng Việt, và với những ai không biết, khi gặp đều nghĩ đây là những người Mỹ hoàn toàn.

Phượng Nam nổi tiếng do một bức tranh anh vẽ năm cháu khoảng bốn tuổi, trong chiếc áo dài Việt Nam màu vàng, tay cầm một chong chóng nhỏ. Bức tranh được tổ chức UNICEF chọn làm postcard chính thức phát hành nhân Ngày Trẻ Em Thế Giới. Tôi rất mừng thấy Phượng Nam đến. Phượng Nam hay xung khắc với papa và chắc cũng lâu lắm rồi không gặp papa. Mọi người đều nói có lẽ tính khí của Phượng Nam quá giống anh.

Linh Giang hơi khác chị, rất dịu dàng. Khi mới lên đại học, cháu có học toán với tôi, được một buổi rồi thôi. Khi gặp lại, cháu không nhắc lại bài học toán mà nhắc lại những bài học đầu tiên về guitare mỗi lần lên chơi Thạch Lũng tôi có dạy cho cháu. Hiện thời cháu dạy guitare ở một trung tâm âm nhạc vùng Maryland. Tôi nói với cháu thật ra guitare là môn tôi dốt nhất, và có thể trong tương lai nếu sức khỏe cho phép tôi sẽ đến học guitare với cháu.

Hôm Thứ Bảy đó, anh đã yếu lắm. Khi nói chuyện và nắm tay anh, không thấy anh bóp nhẹ như hôm qua. Tuy nhiên, chị Lai Hồng cho biết, sáng Thứ Bảy đó, bỗng nhiên anh mở mắt lớn nhìn chị, thều thào được mấy tiếng “Hồng ơi!  Hồng ơi!  Hồng ơi! …” rồi nở nhẹ nụ cười thật hiền, tay nắm chặt tay chị đưa lên đưa xuống. Chị linh cảm... Buổi chiều, khi hai cháu Phượng Nam và Linh Giang đến, cúi xuống ôm anh, “Papa, this is Phượng Nam. Papa, this is Linh Giang!”, tôi thấy môi anh hơi mấp máy.  Hai cháu cầm tay anh. Bất động. Nhưng mấy giọt nước mắt chảy dài trên phía trái…

Chiều hôm sau, chúa nhật 31 tháng 5, 2009, chúng tôi trở lại. Vài phút sau đó, anh chị Nguyễn Trà/ Thanh Trúc cũng đến, trong những chiếc áo lam truyền thống. Tôi cầm tay anh Đình, không thấy chút phản ứng. Sau đó, khi đang ngồi nói chuyện trong phòng khách, có người ra cho biết cô y tá báo động. Chúng tôi bước vào phòng. Chị Lai Hồng, anh chị Trà, Phượng Nam, Linh Giang và cô y tá Mỹ đã có mặt ở đó. Chúng tôi đứng quanh giường anh. Cháu Linh Giang ngồi dưới đất, ngoài cánh cửa gương lớn ngăn cách phòng anh với vườn sau. Cháu ngồi im, mắt nhắm, trong tư thế tọa thiền, tay chắp lại. Hơi thở anh yếu dần. Chị Lai Hồng đứng yên, im lặng một cách lạnh người. Anh chị Trà bắt đầu tụng kinh Thủy Sám. Rồi, đọc kinh Bát Nhã.

“...Xá Lợi Tử nghe đây: Thể mọi pháp đều không. Không sanh cũng không diệt. Không nhơ cũng không sạch. Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh không,  không có sắc, thọ, tưởng. Cũng không có hành thức. Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có mười tám giới. Từ nhãn đến ý thức không hề có vô minh. Không có hết vô minh. Cho đến không lão tử. Cũng không hết lão tử. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng không đắc...”

Hơi thở anh yếu dần. Anh chị Trà, chuyển sang tụng kinh A Di Đà, nguyện cầu ngài Tiếp Dẫn Đại Sư đưa một linh hồn về nơi Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật,... Tiếng tụng nhỏ, đều đều, như âm vang từ một cõi xa xôi nào vọng lại.

Hơi thở anh yếu dần. Yếu dần. Rồi ngưng hẵn. Ngọn đèn trên bàn cô y tá, cạnh chị Lai Hồng, vụt chớp rồi tắt. Đúng 6 giờ 20 chiều. Chúng tôi vội bước đến gần anh. Cháu Phượng Nam đến ôm mặt anh, “Papa, this is Phượng Nam!” Cháu Linh Giang ngồi yên trong tư thế tọa thiền. Chị Lai Hồng đứng yên cuối giường, im lặng. Dù đã dặn trước không được tỏ xúc động, Hoàng Bắc vẫn khóc.

Chúng tôi lần lượt nói lời vĩnh biệt. Khoảng 10 giờ tối, tất cả ra về, chỉ còn lại chị Lai Hồng với các cháu...và anh.

Tôi nhớ lại rất rõ, nét mặt anh, điệu bộ anh, giọng sang sảng của anh, khi ngâm Tống Biệt Hành của Thâm Tâm. “Đưa người ta không đưa qua sông...”

Trương Vũ
Maryland, tháng 6 năm 2009


Võ Đình, Trương Vũ, Trần Thị Lai Hồng, và Huỳnh Sanh Thông
(Maryland, 1996).

Anh chị Võ Đình và bằng hữu tại buổi ra mắt tác phẩm Mây
Chó, Đại Học George Mason, Virginia, 2004

Tranh Võ Đình: Nocturne, chất liệu acrylic trên ván ép,
thực hiện vào thập niên 1980 
(sưu tập của gia đình Trương Hồng Sơn)