Friday, September 13, 2024

3562. MỘT ĐÁM MÂY NHỎ James Joyce Nhà văn người Ireland (1882-1941) THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu


Nhà văn James Joyce (1882-1941)

 

“Tôi sẽ cho bạn biết những gì tôi sẽ làm và những gì tôi sẽ không làm. Tôi sẽ không phục vụ cái mà tôi không còn tin tưởng nữa, cho dù nó tự gọi nó là quê hương, tổ quốc hay nhà thờ của tôi: và tôi sẽ cố gắng thể hiện bản thân trong một số phương thức sống hoặc nghệ thuật một cách tự do nhất có thể và trọn vẹn nhất có thể. có thể, sử dụng để tự vệ những vũ khí duy nhất mà tôi cho phép mình sử dụng - im lặng, đày ải và xảo quyệt.”

 

 “ I will tell you what I will do and what I will not do. I will not serve that in which I no longer believe, whether it calls itself my home, my fatherland, or my church: and I will try to express myself in some mode of life or art as freely as I can and as wholly as I can, using for my defense the only arms I allow myself to use -- silence, exile, and cunning.”

  

James Joyce sinh ra trong một gia đình trung lưu tại Dublin. Thuở nhỏ, Joyce được giáo dục theo tinh thần Công giáo trong trường học nhưng về sau bội đạo. Tại Đại học Cao đẳng Dublin, Joyce học ngôn ngữ và văn học Anh cũng như các thứ tiếng khác. Năm 1902, Joyce đến Paris học y khoa nhưng sớm từ bỏ rồi quay lại Dublin. Năm 1904, Joyce gặp Nora Barnacle, sống chung và có 3 người con nhưng phải đến năm 1931 mới kết hôn. Cặp đôi sống xa Ireland trong gần 35 năm tại Trieste, Zürich và Paris. Joyce từng đi dạy tiếng Anh, gia sư hay viết bài đăng báo để kiếm sống. Sự nghiệp văn chương liên tục bị cản trở do những thiếu thốn vật chất, bệnh khiếm thị và hay chứng tâm thần của người con gái Lucia.

   

Với phong cách tự truyện rõ rệt, văn xuôi của Joyce in hằn thế giới Ireland, đặc biệt là Dublin, nơi ông sống thuở nhỏ và trưởng thành. A Portrait of the Artist as a Young Man khắc họa những xung đột nội tâm trong bản ngã khác của nhà văn, từ bỏ tôn giáo để đến với văn chương. Được coi là kiệt tác văn học Anh, tiểu thuyết Ulysses miêu tả một ngày trong đời nhân vật Leopold Bloom qua hình ảnh Dublin đồng nhất với ý thức chính tác giả. Ông tiếp tục đẩy thử nghiệm nghệ thuật của mình lên cực độ trong tiểu thuyết Finnegans Wake, một tác phẩm chất đầy mã hóa, nơi ý nghĩa ẩn giấu khó hiểu sau ngôn từ và phong cách độc đáo. Khi được hỏi vì sao lại chọn phong cách khó khăn như vậy, ông trả lời "để làm các nhà phê bình bận rộn trong 300 năm tới".


James Joyce được cộng đồng nói tiếng Anh tưởng niệm thường niên vào ngày 16 tháng 6 (Bloomsday) là ngày diễn biến trong tiểu thuyết Ulysses. Tác phẩm của Joyce ảnh hưởng đến Samuel Becket (học trò ông), William Faulkner, Eugene O’Neill, Djuna Barnes, Jorge Luis Borges và Umberto Eco.

    

Hồi 4:40 sáng ngày 10 tháng 1 năm 1941, cơn đau dạ dày hành hạ khiến Joyce tỉnh dậy.  Ảnh chụp X quang cho thấy có vết loét thủng, chảy máu bên trong. Ngày 11 tháng 1, bác sĩ tiến hành phẫu thuật, lúc đầu dường như có vẻ thành công hồi phục nhưng sau vài giờ, Joyce rơi vào hôn mê và được truyền máu .Hồi 1 giờ sáng ngày 13 tháng 1, ông tỉnh lại, kêu y tá gọi Nora và Giorgio, nhưng đã tử vong trước khi hai người có mặt. Khám nghiệm tử thi xác định nguyên nhân cái chết là do viêm phúc mạc. Nhà điêu khắc Paul Speck được yêu cầu tạo hình mặt nạ từ xác Joyce, ghi lại trung thực hình ảnh sầu khổ, mất hết sức lực. Ngày 15 tháng 1, Joyce được an táng tại nghĩa trang Fluntern ở Zürich. Khi được hỏi có thể tổ chức tang lễ theo nghi thức Công giáo, Nora trả lời "Tôi không thể làm điều như vậy với anh ấy". Về sau, Nora muốn cải táng cho Joyce về Ireland nhưng bị hàng ngũ giáo phẩm Công giáo phản đối. Như để trả thù, bà không nhượng lại bản thảo Finnegans Wake cho Thư viện quốc gia Dublin mà chấp thuận với Harriet Weaver chuyển nó về Thư viện Anh .  Ngày 10 tháng 4 năm 1951, Nora Barnacle qua đời và được chôn cất cùng nghĩa trang với James Joyce. Năm 1966, cả hai cùng được cải táng, đưa về chung một "mộ vinh danh", phía trên đặt tượng James Joyce.

     

Theo Harry Levin, tác phẩm của Joyce xoay quanh hai chủ đề ám ảnh: nghệ sĩ và thành phố. Đô thị hiện đại kiểu mẫu Dublin thiếu hẳn vẻ đẹp, còn người nghệ sĩ truyền bá thẩm mỹ thì bị dư luận phẫn nộ coi là tà giáo, không thể hòa nhập được. Giải pháp duy nhất là cứ lưu vong tha hương.Lý thuyết quan trọng nhất của Joyce về nghệ thuật, thẩm mỹ, nghệ sĩ xuất hiện trong chương thứ năm của A Portrait of the Artist as a Young Man cho đến Proteus, Scylla và Caribda của Ulysses. Các quan điểm được thể hiện trong Portrait gắn chặt với học thuyết Thomas Aquino và  Aristoteles về trật tự và hệ thống (cosmos), dường như mâu thuẫn với văn xuôi Joyce về sau được chuyển sang vô trật tự hỗn mang (chaos). Trong Finnegans Wake, nhà văn ghép chaos với cosmos lại thành chaosmos để tổ hợp các mặt đối lập đặc trưng cho tác phẩm của mình. Umberto Eco tuyên bố "Portrait không phải là tuyên ngôn thẩm mỹ của Joyce, mà là bức chân dung nhà văn không còn tồn tại khi hoàn thành phác thảo tự truyện và bắt đầu sáng tác Ulysses."

   

Các tác phẩm của Joyce vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa đương đại. Ulysses là hình mẫu cho các tiểu thuyết gia, đặc biệt về sự khám phá sức mạnh của ngôn ngữ. Sự nhấn mạnh vào chi tiết cuộc sống thường ngày mở ra khả năng biểu đạt mới cho các tác giả, họa sĩ và nhà làm phim. Ulysses luôn có vị trí trong lòng độc giả khi thường giữ thứ hạng cao trong danh sách 'Sách hay'. Những đổi mới của Joyce vượt ra ngoài văn học Anh: văn của ông là nguồn cảm hứng cho các nhà văn Mỹ Latinh, Finnegans Wake trở thành một trong những tác phẩm then chốt cho chủ nghĩa hậu cấu trúc tại Pháp.

   

Thư viện Quốc gia Ireland   hiện giữ bộ sưu tập lớn những tài liệu liên quan đến Joyce như bản thảo và sổ ghi chép, đa phần được số hóa đưa lên mạng trực tuyến. Thư viện liên doanh với Đại học Cao đẳng Dublin lập nên Bảo tàng Văn học Ireland ( Museum of Literature Ireland - MoLI liên hệ với nhân vật Molly Bloom),triển lãm chủ yếu về Joyce và tác phẩm, có riêng một bộ sưu tập nhỏ cố định những thứ liên quan đến Joyce, đồng thời còn mượn từ vật phẩm từ hai bên, trong đó có "Bản sao số 1" tiểu thuyết Ulyssess. Các trung tâm dành riêng về Joyce ở Dublin gồm Trung tâm James Joyce ở Phố North Great George, Tháp James Joyce và Bảo tàng ở Sandycove ( tháp Martello là nơi nhà văn từng sống, cũng như bối cảnh mở đầu trong Ulysses), Bảo tàng văn sĩ Dublin.

    

James Augustine Aloysius Joyce  được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20 với hàng loạt tác phẩm mang đầy tính sáng tạo, thử nghiệm và gây tranh cãi.

   

Trong số những tác phẩm của ông, nổi tiếng nhất là Ulysses. Cuốn sách này từng bị cấm xuất bản tại nhiều nơi, tạo nên một cuộc tranh cãi lớn. Cho đến tận ngày nay, Ulysses luôn nằm trong danh sách tác phẩm kinh điển của văn chương thế giới nhưng hầu như rất ít người có thể đọc, chưa nói đến hiểu được tác phẩm này. Năm 1998, NXB Modern Library xếp Ulysses vào vị trí số 1 trong 100 cuốn sách viết bằng tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20.

Năm 1999, tạp chí Time đã xếp James Joyce vào danh sách 100 nhân vật quan trọng nhất thế kỷ 20 - ( 100 Most Important People of the 20th Century. )

 

A Little Cloud đề cập đến ý tưởng rời khỏi nhà để phát triển và đạt được thành công. Tuy nhiên, ALittle Cloud đưa ra một cái nhìn phức tạp về chủ đề này. Thành công của Gallaher với tư cách là một nhà báo vẫn chưa được biết đến, mặc dù anh ấy chắc chắn rất thích những chuyến đi của mình.


Cụ thể, biểu tượng một đám mây nhỏ tượng trưng cho cảm giác tầm thường của Little Chandler, sự phụ thuộc quá mức vào trí tưởng tượng và bản chất phù du của khả năng trao quyền của anh ta. Giống như một đám mây nhỏ trên bầu trời rộng lớn, Little Chandler là một người đàn ông nhỏ bé ở thành phố lớn Dublin, Ireland.


Cuối cùng, Little Chandler cảm nhận được rằng mình là “tù nhân suốt đời”. Anh ta bị mắc kẹt bởi thế giới công việc và cuộc sống gia đình trần tục mà anh ta rơi vào do không thể theo đuổi đam mê của mình một cách đáng sợ.

Đối với Little Chandler, con người mà các bạn sẽ gặp trong truyện dưới đây, hôm đó bình minh thật tươi sáng, và chàng đón chào ngày mới với tất cả tấm lòng trìu mến. Nhưng rồi một đám mây nhỏ xuất hiện và che khuất hẳn ánh mặt trời.

 


     "Anh ấy có thể viết một cái gì đó độc đáo không? Anh ấy không chắc mình muốn thể hiện ý tưởng gì, nhưng ý nghĩ rằng một khoảnh khắc thơ mộng đã chạm đến anh ấy đã truyền sức sống trong anh ấy như một niềm hy vọng trẻ thơ."

   Tám năm trước, anh đã tiễn bạn mình ở Bức tường phía Bắc và chúc bạn thượng lộ bình an. Gallaher đã thành công trong sự nghiệp . Bạn có thể nhận ra điều đó ngay lập tức qua bộ dạng của một người đã đi du lịch nhiều, ở  bộ đồ vải tuýt được cắt may khéo léo và giọng nói hùng hồn của anh ấy. Rất ít người có tài năng như anh , và càng ít người có thể không bị ảnh hưởng bởi thành công như vậy. Trái tim của Gallaher đã đặt đúng chỗ và anh ấy xứng đáng giành chiến thắng. Thật tuyệt khi có một người bạn như thế.

   Những suy nghĩ của “ Bé Chandler “ kể từ giờ ăn trưa là về cuộc gặp gỡ với Gallaher, về lời mời của Gallaher và về thành phố London vĩ đại nơi Gallaher sống. Anh được gọi là Bé Chandler bởi vì mặc dù anh ta có tầm vóc hơi dưới mức trung bình nhưng anh ta khiến người ta có cảm tưởng về một cậu bé. Bàn tay của anh  trắng và nhỏ, thân hình mảnh dẻ, giọng nói trầm lặng và cách cư xử tao nhã. Anh rất chăm chút cho mái tóc vàng óng và bộ ria mép của mình, đồng thời kín đáo xức nước hoa lên chiếc khăn tay. Móng tay hình bán nguyệt của anh ấy thật hoàn hảo, và khi anh ấy cười, bạn thoáng thấy một hàng răng trắng như răng sữa .

   Khi ngồi vào bàn làm việc ở nhà hàng King, anh nghĩ về những thay đổi mà tám năm đó đã mang lại. Người bạn mà anh quen biết dưới vỏ bọc tồi tàn và tầm thường đã trở thành một nhân vật nổi bật trong làng báo London. Anh thường  ngừng công việc viết lách mệt mỏi của mình để nhìn ra ngoài cửa sổ văn phòng. Ánh hoàng hôn cuối thu bao phủ những bãi cỏ và lối đi. Nó trút một cơn mưa bụi vàng dễ chịu lên những y tá chải chuốt và những ông già lụ khụ đang ngủ gật trên những chiếc ghế dài. Ánh nắng lung linh trên những hình dáng đang chuyển động - những đứa trẻ chạy la hét dọc theo những con đường rải sỏi và trên tất cả những người đi ngang qua khu vườn. Anh ngắm cảnh và nghĩ về cuộc sống; và (như thường lệ khi anh nghĩ về cuộc đời) anh trở nên buồn bã. Một nỗi buồn nhẹ nhàng xâm chiếm anh. Anh cảm thấy việc chống lại số phận thật vô ích biết bao, đây là gánh nặng của lịch duyệt mà bao thế hệ đã để lại cho anh.

    Anh nhớ đến những tập thơ trên giá sách ở nhà. Anh đã mua chúng trong những ngày còn độc thân và nhiều buổi chiều , khi ngồi trong căn phòng nhỏ cạnh hành lang, anh đã muốn lấy một cuốn từ giá sách xuống và đọc cho vợ nghe điều gì đó. Nhưng sự nhút nhát luôn giữ anh lại; và thế là sách vẫn còn trên kệ. Đôi khi anh ấy lặp lại những lời thoại cho chính mình và điều này đã an ủi anh ấy.

    Khi giờ làm việc đã điểm, anh ta đứng dậy và rời khỏi bàn làm việc cũng như các đồng nghiệp một cách đúng giờ. Anh ta bước ra khỏi cổng kiến trúc theo hình cánh cung thời Trung cổ của nhà hàng King,  dáng người chải chuốt gọn gàng và bước nhanh xuống đường  Henrietta. Hoàng hôn vàng óng đang tàn dần và không khí trở nên gay gắt hơn. Một đám trẻ con bụi bặm tụ tập trên đường phố. Họ đứng hoặc chạy trên lòng đường, hoặc bò lên bậc thềm trước những cánh cửa hé mở, hoặc ngồi xổm như chuột trên ngưỡng cửa. Chandler không thèm để ý đến chúng . Anh ấy đã khéo léo chọn lựa bước đi giữa đám sinh vật nhỏ bé giống như sâu bọ và dưới bóng tối của những lâu đài hoang vắng như bóng ma , nơi giới quý tộc cũ của Dublin đã từng sống một cuộc đời tưng bừng rộn rịp . Không có ký ức nào về quá khứ chạm đến anh, vì tâm trí anh tràn ngập niềm vui hiện tại.

 

   Anh chưa bao giờ đến quán Corless, nhưng anh biết giá trị của quán đó. Anh  biết rằng mọi người đến đó sau khi tan hát để ăn hàu và uống rượu ngọt ; và anh  đã nghe nói rằng những người phục vụ ở đó nói được tiếng Pháp và tiếng Đức. Đi bộ nhanh vào ban đêm, anh đã nhìn thấy những chiếc taxi đỗ trước cửa và những phụ nữ ăn mặc sang trọng, được các kỵ binh hộ tống, xuống xe và nhanh chóng bước vào.

    Họ mặc những bộ đồ kêu sột soạt  và quấn nhiều khăn. Khuôn mặt của họ phủ đầy phấn và họ phải vén tà áo mỗi khi đặt chân xuống đất, giống như những người  nữ quái kiệt Atalanta trong truyện cổ tích Hy Lạp ngày xưa đang hoảng hốt. Anh luôn đi qua mà không quay đầu lại nhìn. Anh có thói quen đi bộ nhanh trên đường phố ngay cả vào ban ngày, và bất cứ khi nào anh thấy mình ở thành phố vào đêm khuya, anh đều vội vã lên đường với vẻ sợ hãi và phấn khích. Tuy nhiên, đôi khi anh cũng tìm ra nguyên nhân khiến mình sợ hãi. Anh chọn những con đường tối tăm và chật hẹp nhất, và khi anh mạnh dạn bước về phía trước, sự im lặng bao trùm những bước chân khiến anh bối rối; những hình bóng lang thang, im lặng làm anh bối rối; và có lúc một tiếng cười trầm thấp thoáng qua khiến anh run rẩy như một chiếc lá.

    Anh rẽ phải về phía đường Capel. Ignatius Gallaher ở trên báo chí London! Ai có thể nghĩ rằng nó có thể xảy ra tám năm trước? Tuy nhiên, giờ đây khi ôn lại quá khứ, Chandler có thể nhớ lại nhiều dấu hiệu về sự vĩ đại trong tương lai ở bạn mình. Người ta thường nói Ignatius Gallaher là người phóng đãng. Tất nhiên, vào thời điểm đó anh ta đã giao du với một nhóm ngang tàng; uống rượu thoải mái và vay tiền tứ phía. Cuối cùng anh ta đã vướng vào một vụ việc mờ ám nào đó, một vụ giao dịch tiền bạc nào đó: ít nhất, đó là một lời giải thích việc anh trốn chạy.  Nhưng không ai phủ nhận tài năng của anh. Luôn có một cái gì, một điều gì đó ở Ignatius Gallaher gây ấn tượng cho người ta dù muốn hay không . Ngay cả khi lâm vào cảnh nghèo xơ xác và nghĩ nát óc không ra cách kiếm tiền , anh vẫn giữ bộ mặt mạnh dạn . Chandler nhớ lại (và sự hồi tưởng đó khiến má anh hơi ửng hồng tự hào) một trong những câu nói của Ignatius Gallaher khi anh ở trong tình thế khó khăn:

     Đã nửa đời người rồi các bạn ơi ,” anh thường nói một cách vui vẻ. “ Tôi phải suy nghĩ làm chuyện gì mới được.”

     Đó là tất cả tâm sự Ignatius Gallaher; và, khốn nỗi , người ta không thể không ngưỡng mộ anh ấy vì điều đó.

   Chandler tăng tốc độ. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy mình vượt hơn những người anh đi ngang qua. Lần đầu tiên tâm hồn anh nổi loạn chống lại sự thiếu lịch sự buồn tẻ của đường Capel. Không còn nghi ngờ gì nữa: nếu bạn muốn thành công bạn phải ra đi. Bạn không thể làm gì nên chuyện ở Dublin. Khi băng qua Cầu Grattan, anh nhìn xuống sông về phía các bến cảng phía dưới và thương hại những ngôi nhà lụp xụp nghèo khổ. Đối với anh, họ dường như là một nhóm người lang thang, tụ tập dọc theo bờ sông, những chiếc áo khoác cũ phủ đầy bụi và bồ hóng, sững sờ trước khung cảnh hoàng hôn và chờ đợi cơn lạnh đầu tiên của đêm đánh thức họ dậy, lắc mình và rời đi. Anh tự hỏi liệu mình có thể viết một bài thơ để bày tỏ ý tưởng của mình không. Có lẽ Gallaher có thể đăng nó lên một tờ báo nào đó ở London cho anh. Anh có thể viết một cái gì đó độc đáo? Anh không chắc mình muốn diễn đạt ý tưởng gì, nhưng ý nghĩ rằng một khoảnh khắc thơ mộng đã chạm đến anh đã mang lại sức sống trong anh như một niềm hy vọng trẻ thơ. Anh dũng cảm bước tiếp.

    Mỗi bước đi đều đưa anh đến gần London hơn, xa hơn khỏi cuộc sống tỉnh táo, thiếu mỹ thuật của chính anh. Một ánh sáng bắt đầu rung rinh ở chân trời của tâm trí anh. Anh  chưa già lắm - ba mươi hai. Tính khí của anh có thể nói là vừa mới ở độ tuổi trưởng thành. Có rất nhiều tâm trạng và ấn tượng khác nhau mà anh muốn thể hiện bằng câu thơ. Anh cảm nhận được chúng bên trong mình. Anh thử cân tâm hồn mình xem có phải là tâm hồn thi sĩ không. Anh nghĩ, nỗi buồn là đặc điểm nổi bật trong tính khí của anh, nhưng đó là nỗi u sầu được xoa dịu bởi sự tái hiện của niềm tin, sự cam chịu và niềm vui đơn giản.

    Nếu anh có thể diễn đạt nó trong một tập thơ thì có lẽ đàn ông sẽ lắng nghe. Anh  sẽ không bao giờ nổi tiếng: anh ấy đã thấy điều đó. Anh không thể làm lung lay đám đông, nhưng anh có thể thu hút được một nhóm nhỏ những người có cùng chí hướng. Có lẽ các nhà phê bình người Anh sẽ công nhận anh là một trong những người thuộc trường phái Celtic nhờ giọng điệu u sầu trong các bài thơ của anh. Ngoài ra, anh  còn nghĩ ra những câu, những từ ngữ thể hiện sự chú ý của người ta đến tác phẩm của mình. ``Ông Chandler có năng khiếu làm thơ nhẹ nhàng và duyên dáng'... `Một nỗi buồn đăm chiêu tràn ngập những bài thơ này'... `Âm điệu  Celtic'. Thật tiếc là tên của anh không giống người Ireland hơn. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu ghi thêm  tên mẹ anh vào trước biệt hiệu của anh : Thomas Malone Chandler; hoặc tốt hơn nữa là: T. Malone Chandler. Anh ấy sẽ nói chuyện với Gallaher về điều đó.

    Anh theo đuổi giấc mơ của mình một cách hăng say đến nỗi anh đi qua khỏi phố và phải quay lại. Khi đến gần nhà hàng Corless, sự kích động trước đây của anh bắt đầu lấn át anh và anh dừng lại trước cửa với vẻ do dự. Cuối cùng anh ta mở cửa và bước vào.

    Ánh sáng và tiếng ồn trong nhà khiến anh dừng lại ở ngưỡng cửa một lúc. Anh nhìn quanh, nhưng chỉ thấy lờ mờ bởi ánh sáng lấp lánh của nhiều ly rượu vang đỏ và xanh. Đối với anh, quán bar dường như đầy người và anh cảm thấy mọi người đang tò mò quan sát mình. Anh ta liếc nhanh sang phải và trái (hơi cau mày để làm cho mục đích nhìn của anh ta có vẻ nghiêm túc), nhưng khi tầm nhìn của anh ta rõ hơn một chút, anh ta thấy rằng không có ai quay lại nhìn anh : và ở đó, chắc chắn rồi, là Ignatius Gallaher đang dựa lưng vào cái quầy và hai chân đặt cách xa nhau.

    'Xin chào, Tommy, anh hùng thuở xưa, mãi bây giờ mới thấy anh ! Ta phải làm gì đây?  Anh uống gì? Tôi đang uống whisky: rượu uống không pha ngon hơn là pha nước . Anh dùng soda hay  Lithine? Anh không dùng nước suối à ? Tôi cũng vậy.  Nó làm hỏng hương vị rượu đi... Lẹ lên, mang cho chúng tôi hai ly nhỡ whisky ... Chà, và bạn đã cố gắng như thế nào kể từ lần cuối tôi gặp bạn? Lạy Chúa, chúng con đã già rồi! Bạn có thấy dấu hiệu lão hóa nào ở tôi không - ồ, cái gì? Tóc đã hoa râm và thưa trên đỉnh đầu  hả- ?'

    Ignatius Gallaher cởi mũ ra và để lộ một cái đầu to, tóc cắt ngắn . Khuôn mặt anh ta nặng nề, nhợt nhạt và cạo râu sạch sẽ. Đôi mắt màu xanh lam của anh ta làm dịu đi vẻ xanh xao ốm yếu và tỏa sáng rõ ràng trên chiếc cà vạt màu cam sống động mà anh đeo. Giữa những đặc điểm đối nghịch này, đôi môi có vẻ rất dài, không có hình dạng và không màu. Anh cúi đầu và dùng hai ngón tay thông cảm sờ lên mái tóc mỏng ở đỉnh đầu. Little Chandler lắc đầu phủ nhận. Ignatius Gallaher lại đội mũ lại .

    Anh nói. ' Đời sống ký giả nó làm người ta suy nhược đi . Luôn vội vàng chạy đi tìm kiếm bản thảo và đôi khi không tìm thấy nó: và sau đó, luôn có thứ gì đó mới mẻ cho tờ báo . Anh này, tôi bất chấp cả bài chữa và thợ in trong vài ngày. Tôi có thể nói với bạn rằng tôi rất vui mừng được trở lại quê hương cũ. Có một đồng nghiệp tốt, một chút của một kỳ nghỉ. Tôi cảm thấy tốt hơn rất nhiều kể từ khi đặt chân trở lại Dublin thân yêu và bẩn thỉu... Anh đây rồi, Tommy. Anh muốn thêm nước à? Hễ thôi thì báo nhé .”

        Chandler đã pha loãng rượu whisky của mình rất nhiều.

     “ Anh không biết thế nào là vừa à,” Ignatius Gallaher nói, một cách khiêm tốn .'

“Thông thường tôi uống rất ít,”  Chandler khiêm tốn nói. “Một nửa ly khi tôi gặp bất kỳ ai trong đám đông cũ: thế thôi.”

    “Ồ,” Ignatius Gallaher vui vẻ nói, “đây là lời chúc mừng chúng ta, những ngày xa xưa và những người quen cũ.”

      Họ cụng ly và uống chúc mừng nhau .

     “Hôm nay tôi đã gặp một số thành viên cũ,” Ignatius Gallaher nói. “O'Hara có vẻ không ổn rồi. Anh ấy đang làm gì thế?”

“Không có gì,” Little Chandler nói. “Anh ấy bị khó khăn .”

    “Nhưng Hogan có địa vị rất tốt phải không?”

    “Ừ, làm việc ở Ủy ban Điền địa.”

    “Tôi có  gặp anh ấy vào một đêm ở London và anh ấy có vẻ làm ăn phấn chấn lắm... Tội nghiệp O'Hara! Tôi cho là rượu chè be bét”

   “ Còn nhiều chuyện khác nữa,”  Chandler nói ngắn gọn.

     Ignatius Gallaher cười lớn.

    Anh nói, “ Tôi thấy anh chưa hề thay đổi một chút nào cả. Anh chính là người nghiêm túc đã từng thuyết pháp tôi vào những buổi sáng Chủ nhật khi tôi bị đau đầu và đắng miệng vì hôm trước uống rượu nhiều quá . Rồi anh sẽ thích du lịch đó đây trên thế giới. Anh chưa bao giờ đi du lịch ở đâu cả phải không?'

   “Tôi đã đến Đảo Man, (gần Dublin )” Chandler nói.

Ignatius Gallaher cười lớn.

    'Đảo Man!' anh ấy nói. ‘Hãy tới London hoặc Paris: Paris, để lựa chọn. Điều đó sẽ tốt cho anh nhiều lắm .”

    “Anh đã thấy Paris chưa?”

     'Tôi nên nghĩ là tôi có! Tôi có ghé qua đó một thời gian ngắn .”

     ‘Và nó có thực sự đẹp như người ta nói không?’ Chandler  hỏi.

     Anh nhấp một ngụm đồ uống trong khi Ignatius Gallaher mạnh dạn uống hết.

`Không đẹp lắm, anh ạ. Cố nhiên đẹp… Ignatius Gallaher nói, dừng lại từ ngữ và hương vị đồ uống của mình. “ Nhưng đó là cuộc sống của Paris; đó là điều À, không có thành phố nào như Paris về sự vui vẻ, chuyển động, phấn khích... '

  Chandler uống xong ly whisky của mình và sau một hồi bối rối, anh đã ra hiệu được cho người phục vụ. Anh bảo mang lại cũng thứ rượu đó.

    “Tôi đã đến nhà hàng Moulin Rouge,” Ignatius Gallaher tiếp tục khi người phục vụ đã dọn ly cho họ, “và tôi đã đến tất cả các quán cà phê của khách giang hồ. Họ vui nhộn lắm ! Không dành cho một người ngoan ngoãn như anh đâu .”

     Chandler không nói gì cho đến khi người phục vụ quay lại với hai ly: sau đó anh chạm nhẹ vào ly của bạn mình và đáp lại lời chúc mừng trước đó. Anh bắt đầu cảm thấy hơi thất vọng. Giọng nói và cách ăn nói của Gallaher không làm anh hài lòng. Có điều gì đó thô tục ở người bạn của anh mà trước đây anh chưa từng nhận thấy. Nhưng có lẽ đó chỉ là kết quả của cuộc sống ở London giữa sự nhộn nhịp và cạnh tranh của báo chí.

    Sự quyến rũ cá nhân cũ vẫn còn đó dưới phong cách lòe loẹt mới này. Và xét cho cùng, Gallaher đã sống, anh đã nhìn thấy thế giới. Chandler nhìn bạn mình một cách ghen tị.

     Ignatius Gallaher nói: “Mọi thứ ở Paris đều vui ”. ' Người ta tin vào việc tận hưởng cuộc sống - và anh không nghĩ họ đúng sao? Nếu anh muốn tận hưởng chính mình một cách đúng đắn, anh phải đến Paris. Và xin lưu ý, họ có cảm tình tuyệt vời với người Ireland ở đó. Khi họ biết tôi đến từ Ireland, họ đã sẵn sàng ăn thịt tôi, anh bạn ạ.'

     Chandler uống bốn hoặc năm ngụm từ ly của mình.

    “Hãy nói cho tôi biết,” anh ấy nói, “có đúng là Paris quá… phóng đãng như người ta nói không?”

     Ignatius Gallaher làm một dấu thánh giá bằng cánh tay phải của mình.

   “Nơi nào mà không phóng đãng,” anh nói. “Tất nhiên người ta sẽ tìm thấy những món lạ ở Paris. Ví dụ: đi tới một trong những buổi khiêu vũ của sinh viên . Điều đó thật sống động, nếu anh thích, khi các ả bắt đầu không giữ gìn gì nữa . Tôi đoán là bạn biết chúng là ai phải không?”

    “Tôi đã nghe nói về họ,”  Chandler nói.

     Ignatius Gallaher uống hết whisky và lắc đầu.

    “À,” anh ấy nói, “bạn có thể nói điều gì bạn thích. Không có người phụ nữ nào giống như người phụ nữ Paris - về phương diện lịch sự và sinh lực .”

   “Vậy thì đó là một thành phố truỵ lạc rồi ,”  Chandler nói, với sự nhấn mạnh rụt rè .   “Ý tôi là, so với London hay Dublin?”

 “ London à ! “  Ignatius Gallaher nói. “ Thì cũng nửa nọ nửa kia, chứ không kém. Cứ hỏi Hogan thì rõ . Tôi đã chỉ cho anh ấy một chút về London khi anh ấy ở đó. Anh ấy sẽ mở mắt cho anh... Tôi nói , đừng nhấp hớp một ly rượu whisky đó: uống hết  đi.'

   Không, chịu thôi! “

    Ồ, thôi nào, một ly nữa  sẽ không làm hại anh đâu. Anh uống gì? Tôi cho là cũng như vậy nữa phải không?”

    `Ừm... được rồi.'

'Francois, lại như cũ... Anh có hút thuốc không ?'

     Ignatius Gallaher lấy ra hộp đựng xì gà của mình. Hai người bạn châm điếu xì gà và im lặng rít cho đến khi đồ uống được phục vụ.

     “Tôi sẽ cho bạn biết ý kiến của tôi,” Ignatius Gallaher nói, sau một lúc nhả ra đám khói bao quanh anh ta , “ Tôi sẽ cho anh hay ý kiến của tôi . Thế giới này kỳ quặc lắm. Nói tới trụy lạc ! Tôi đã nghe nói về các trường hợp - tôi đang nói gì vậy? - Tôi đã biết họ: những trường hợp... trụy lạc... '

     Ignatius Gallaher trầm tư rít điếu xì gà rồi sau đó, với giọng điềm tĩnh của một sử gia, anh bắt đầu phác họa cho bạn mình một số bức tranh về tình trạng tham nhũng tràn lan ở nước ngoài. Anh tóm tắt những tật xấu của nhiều thủ đô và dường như có xu hướng trao lòng tin cho Berlin. Có những điều anh không thể xác nhận (bạn bè anh đã kể cho anh nghe), nhưng có những điều anh đã có kinh nghiệm cá nhân. Anh ta không nể nang địa vị  hay giai cấp nào . Anh tiết lộ nhiều bí mật của các tu viện trên lục địa và mô tả một số tập tục thời thượng trong xã hội thượng lưu, và kết thúc bằng việc kể chi tiết một câu chuyện về một nữ công tước người Anh - một câu chuyện mà anh ta biết là có thật. Chandler nhỏ rất ngạc nhiên.

À,,” Ignatius Gallaher nói, “chúng ta đang ở Dublin, nơi không có thông tin gì về những điều như vậy.”

   ``Bạn hẳn thấy nó buồn tẻ làm sao,' Little Chandler nói, 'sau tất cả những nơi khác mà bạn đã thấy!'

    “Chà,” Ignatius Gallaher nói, “đến đây thật là thư giãn, bạn biết đấy. Và rốt cuộc, đó là quê hương cũ, như người ta nói, phải không? Bạn không thể không có một cảm giác nào đó về nó. Đó là bản chất của con người... Nhưng hãy cho tôi biết điều gì đó về bạn. Hogan kể với tôi rằng anh đã... nếm trải niềm vui hạnh phúc vợ chồng. Hai năm trước phải không?”

     Chandler đỏ mặt và mỉm cười.

     “Ừ,” anh nói. “Tôi đã kết hôn vào tháng Năm năm ngoái, mười hai tháng.”

     Ignatius Gallaher nói: “Tôi hy vọng vẫn chưa quá muộn trong ngày để gửi những lời chúc tốt đẹp nhất của tôi”. “Tôi đã không biết địa chỉ của anh nếu không tôi đã gởi lời chúc mừng vào lúc đó.”

    Anh đưa tay ra và  Chandler nắm lấy.

     “Được rồi, Tommy,” anh ta nói, “tôi chúc anh và gia đình anh mọi niềm vui trong cuộc sống, anh bạn già, và thật nhiều tiền, và cầu mong anh đừng bao giờ chết cho đến khi tôi bắn anh. Và đó là tâm nguyện của một người bạn chân thành, một người bạn cũ. Bạn biết điều đó không?'

     “Tôi biết điều đó,” Little Chandler nói.

     “Có cháu nhỏ nào chưa ?” Ignatius Gallaher nói.

 Chandler lại đỏ mặt.

     “Chúng tôi có một cháu,” anh nói.

     `Con trai hay con gái?'

     “ Trai.”

      Ignatius Gallaher vỗ mạnh vào lưng bạn mình.

      “Hoan hô,” anh ấy nói, “Tôi thực sự tin tưởng anh, Tommy.”

 Chandler mỉm cười, bối rối nhìn ly rượu và cắn môi dưới bằng ba chiếc răng cửa trông như răng sữa.

  “Tôi hy vọng anh  sẽ dành một buổi tối với chúng tôi,” anh ấy nói, “trước khi anh về London. Vợ tôi sẽ rất vui được gặp anh. Chúng ta có thể thưởng thức một chút âm nhạc và--'

  “ Cảm ơn rất nhiều, anh bạn già,” Ignatius Gallaher nói, “Tôi rất tiếc chúng ta đã không gặp nhau sớm hơn. Nhưng tối mai tôi phải đi.”

  ``Tối nay, có lẽ được cháng ?`

    ‘Tôi vô cùng xin lỗi, ông . Anh thấy đấy, tôi ở đây cùng với một anh chàng khác, một anh chàng trẻ tuổi thông minh, và chúng tôi hẹn nhau đi dự một bữa tiệc nhỏ. Chỉ vì điều đó...'

   `Ồ, trong trường hợp đó...'

   “Nhưng ai biết được?” Ignatius Gallaher ân cần nói. 'Năm tới tôi có thể qua đây một chút sau khi tôi đã thử một lần. Thôi, chúng ta đợi dịp khác vậy .”

    “Được rồi,” Little Chandler nói, “lần sau anh đến chúng ta phải có một buổi tối cùng nhau. Giờ thì đồng ý rồi phải không?'

   “Đồng ý,” Ignatius Gallaher nói. `Năm tới nếu tôi về , xin lấy danh dự thể như vậy.”

     “Và để kết thúc ,” Chandler nói, “bây giờ chúng ta sẽ uống thêm một ly nữa.”

     Ignatius Gallaher lấy ra một chiếc đồng hồ lớn bằng vàng và nhìn vào nó.

   “Đây có phải là lần cuối cùng không?” anh ấy nói. `Bởi vì, anh biết đấy, tôi có một a.p.'

    “Ồ, đúng vậy,”  Chandler nói.

    “Được rồi,” Ignatius Gallaher nói, “chúng ta hãy gọi một loại khác là deoc an doirus - ( tiếng Ireland mình    một loại whisky nhỏ ) phải không anh?.”

 Chandler gọi rót rượu . Vẻ đỏ bừng đã hiện lên trên khuôn mặt anh ấy vài phút trước đó đang dần hình thành. Một chuyện vặt vãnh khiến anh bất cứ lúc nào cũng đỏ mặt: và lúc này anh cảm thấy ấm áp và phấn khích. Ba ly whisky nhỏ đã bay vào đầu anh và điếu xì gà nồng nặc của Gallaher đã khiến tâm trí anh bối rối, vì anh là một người tinh tế và kiêng khem. Cuộc phiêu lưu gặp Gallaher sau tám năm, tìm thấy chính mình với Gallaher trong nhà hàng Corless  được bao quanh bởi ánh sáng và tiếng ồn, lắng nghe những câu chuyện của Gallaher và chia sẻ trong một không gian ngắn ngủi về cuộc sống lang thang và chiến thắng của Gallaher, làm đảo lộn sự cân bằng trong bản chất nhạy cảm của anh ta. Anh cảm nhận sâu sắc sự tương phản giữa cuộc sống của chính mình và của bạn mình, và điều đó đối với anh dường như thật bất công. Gallaher thua kém anh về xuất thân và học vấn

     Anh chắc chắn rằng anh có thể làm điều gì đó tốt hơn những gì bạn anh đã từng làm, hoặc có thể làm, điều gì đó cao hơn việc làm nghề báo khoa trương nếu anh ấy có cơ hội. Điều gì đã cản đường anh ấy? Sự rụt rè đáng tiếc của anh ấy! Anh mong muốn được minh oan bằng một cách nào đó, để khẳng định bản lĩnh đàn ông của mình. Anh ấy đã nhìn thấy đằng sau việc Gallaher từ chối lời mời của mình. Gallaher chỉ chiều chuộng anh ta bằng sự thân thiện của anh ta cũng giống như anh ta đang trịch thượng Ireland trong chuyến thăm của mình.

Người phục vụ mang đồ uống đến cho họ.  Chandler đẩy một ly về phía bạn mình và bạo dạn cầm lấy ly còn lại.

    “Ai biết được?” anh ấy nói khi họ nâng ly lên. 'Khi anh đến vào năm tới, tôi có thể hân hạnh chúc ông bà Ignatius Gallaher sống lâu và hạnh phúc.'

Ignatius Gallaher trong lúc uống rượu đã nhắm một mắt một cách đầy biểu cảm trên vành ly của mình. Khi đã say, ông mím môi quả quyết, đặt ly xuống và nói:

     “Không có gì phải sợ hãi về điều đó đâu, bồ ạ . Đầu tiên tôi sẽ đi chơi và nhìn ngắm một chút cuộc sống và thế giới trước khi cho đầu vào tròng - nếu tôi có làm vậy.'

    “Một ngày nào đó anh sẽ làm được,”  Chandler bình tĩnh nói.

Ignatius Gallaher hướng chiếc cà vạt màu cam và đôi mắt xanh lam nhìn bạn mình.

    “Anh nghĩ thế à?” anh nói.

    “Anh sẽ cho cổ mình vào tròng,”  Chandler kiên quyết lặp lại, “giống như những người khác nếu anh tìm được ý trung nhân.”

     Anh  đã hơi nhấn mạnh giọng điệu của mình, và anh nhận thức được rằng mình đã phản bội chính mình; nhưng, dù má anh đã ửng hồng, anh vẫn không hề nao núng trước ánh mắt của bạn bè. Ignatius Gallaher nhìn anh ta một lúc rồi nói:

     “Nếu điều đó xảy ra, bạn có thể đặt cược đồng đô la dưới cùng của mình sẽ không có chuyện đùa giỡn về nó. Ý tôi là cưới tiền. Cô ấy sẽ có một tài khoản béo bở ở ngân hàng nếu không cô ấy sẽ không giúp được gì cho tôi.”

    Chandler lắc đầu.

    Ignatius Gallaher nói hăng say , “ Anh có biết chuyện gì không? Tôi chỉ cần nói một lời là ngày mai tôi sẽ có được người vợ và tiền . Anh không tin điều đó à? Vâng, tôi biết điều đó. Có hàng trăm - tôi đang nói gì vậy? - hàng ngàn người Đức và người Do Thái giàu có, hám tiền, không mong muốn gì hơn là ... Chờ một chút, chàng trai của tôi. Xem liệu tôi có chơi bài đúng cách không. Khi tôi nói về một việc gì đó, ý tôi là kinh doanh, tôi sẽ nói với anh. Anh cứ đợi đi.”

   Anh đưa ly rượu lên miệng, uống cạn ly và cười rộ. Rồi anh suy nghĩ, nhìn về trước mặt và nói bằng giọng bình tĩnh hơn :

   “ Nhưng tôi không vội gì. Cứ để họ chờ đợi. Tôi không thích trói buộc mình vào một người đàn bà, anh biết chứ.”

   Miệng anh bắt chước cử chỉ của người nếm đồ ăn, và anh nhăn mặt .

    “Tôi nghĩ rằng một món ăn mãi chắc  phải hơi ngấy. ” anh nói.

   Chandler ngồi trong phòng ngoài hành lang, bế một đứa trẻ trên tay. Để tiết kiệm tiền, họ không thuê người hầu, nhưng em gái của Annie là Monica đến khoảng một tiếng vào buổi sáng và khoảng một tiếng vào buổi tối để giúp đỡ. Nhưng Monica đã về nhà từ lâu rồi. Lúc đó là chín giờ kém mười lăm. Little Chandler đã về nhà muộn để uống trà và hơn nữa, cậu ấy còn quên mang gói cà phê từ tiệm Bewley về cho Annie.

    Tất nhiên là cô ấy đang rất khó chịu và đưa ra những câu trả lời ngắn gọn cho anh . Cô nói cô sẽ không uống trà, nhưng khi gần đến giờ cửa hàng ở góc phố đóng cửa, cô quyết định tự mình đi ra ngoài mua nửa cân trà và hai cân đường. Cô khéo léo ôm đứa bé đang ngủ vào lòng anh và nói:

'Đây. Đừng đánh thức nó đấy.”

   Một chiếc đèn nhỏ có chụp bằng sứ màu trắng đặt trên bàn, ánh sáng của nó chiếu lên một bức ảnh được đóng trong khung bằng sừng ép. Đó là ảnh của Annie.  Chandler nhìn nó, dừng lại trước đôi môi mỏng mím chặt. Cô mặc chiếc áo mùa hè màu xanh nhạt mà anh đã mang về nhà làm quà vào một ngày thứ Bảy. Anh ta đã phải trả mười shilling mười một xu; nhưng áo đó đã khiến anh phải trả giá bằng sự căng thẳng tột độ! Ngày hôm đó anh đã phải chịu đựng biết bao, đợi ở cửa tiệm cho đến khi cửa hàng vắng người, đứng ở quầy và cố tỏ ra thoải mái trong khi cô gái xếp chồng áo sơ mi nữ trước mặt anh, trả tiền tại bàn và quên mang đồ lặt vặt. một xu tiền lẻ, bị nhân viên thu ngân gọi lại, và cuối cùng, cố gắng che giấu sự đỏ mặt của mình khi rời khỏi cửa hàng bằng cách kiểm tra bưu kiện để xem nó có được buộc chắc chắn hay không. Khi anh mang chiếc áo sơ mi về nhà, Annie hôn anh và nói nó rất đẹp và phong cách; nhưng khi nghe thấy giá, cô ném chiếc áo lên bàn và nói rằng việc tính giá 10 shilling và 11 xu cho nó là một trò lừa đảo thông thường. Lúc đầu, cô muốn lấy lại nó, nhưng khi mặc thử, cô rất thích nó, đặc biệt là với kiểu dáng của tay áo, cô hôn anh và nói rằng anh rất tốt khi nghĩ đến cô.!..

Hừ!

    Anh lạnh lùng nhìn vào mắt người trong ảnh và cặp mắt lạnh lùng nhìn lại . Chắc chắn là mắt rất xinh và khuôn mặt cũng đẹp. Nhưng anh thấy điều gì đó tầm thường trong đó. Tại sao nó lại không có hồn và có  vẻ nữ tính đến vậy? Ánh mắt điềm tĩnh của đôi mắt khiến anh khó chịu. Đôi mắt đẩy lùi anh và thách thức anh : không có niềm đam mê , không có niềm vui sướng. Anh nghĩ tới những gì Gallaher đã nói về những phụ nữ Do Thái giàu có. Đôi mắt đen phương Đông đó, anh nghĩ, chúng tràn đầy đam mê, khao khát khiêu gợi biết bao!... Tại sao anh lại cưới người có đôi mắt trong bức ảnh?

  Tới câu hỏi đó anh dừng lại và lo lắng nhìn quanh phòng. Anh nhận thấy có điều gì đó tồi tệ trong những đồ nội thất đẹp đẽ mà anh đã mua cho ngôi nhà của mình bằng cách trả góp . Annie đã tự mình chọn chúng và nó khiến anh nhớ đến cô. . Một sự oán giận âm ỉ đối với cuộc đời trỗi dậy trong anh. Anh ta không thể trốn thoát khỏi ngôi nhà nhỏ của mình sao? Có phải đã quá muộn để anh cố gắng sống dũng cảm như Gallaher? Anh ấy có thể đến London không? Vẫn còn đồ nội thất phải trả tiền. Nếu anh ấy có thể viết một cuốn sách và xuất bản nó, điều đó có thể mở ra con đường cho anh ấy.

    Một tập thơ của Byron nằm trên bàn trước mặt anh. Anh thận trọng mở nó bằng tay trái để khỏi đánh thức đứa trẻ và bắt đầu đọc bài thơ đầu tiên trong cuốn sách:

     Những cơn gió lặng im và bóng tối ban chiều yên lặng,

    Không có lấy một cơn gió nhẹ thoáng qua những nấm mồ ,

     Trong khi tôi quay lại ngắm mộ Margaret thân yêu của mình

     Và rải hoa trên đám bụi tôi yêu.

Anh ấy dừng lại. Anh cảm nhận được nhịp điệu của câu thơ quanh anh trong phòng. Thật là u sầu biết bao! Phải chăng anh cũng có thể viết như vậy, thể hiện nỗi buồn của tâm hồn mình bằng thơ? Có rất nhiều điều anh muốn mô tả: chẳng hạn như cảm giác của anh vài giờ trước trên cầu Grattan. Nếu anh có thể quay lại với tâm trạng đó một lần nữa...

     Đứa trẻ tỉnh dậy và bắt đầu khóc. Anh lật trang giấy và cố gắng làm cho nó nín nhưng nó không chịu im lặng. Anh bắt đầu lắc lư nó trong vòng tay, nhưng tiếng khóc của nó ngày càng lớn hơn. Anh lắc nó nhanh hơn trong khi mắt anh bắt đầu đọc khổ thơ thứ hai:

    Trong căn mồ nhỏ hẹp này có xác của cô ấy,

    Cái xác mà ở đó đã có lần ...

   Vô ích. Anh không thể đọc được. Anh không thể làm gì được. Tiếng khóc của đứa trẻ xuyên qua màng nhĩ của anh. Cánh tay anh run lên vì tức giận và đột nhiên cúi xuống mặt đứa trẻ, anh hét lên:

  “ Câm mồm đi ! “

    Đứa trẻ nín ngay lập tức vì sợ hãi và bắt đầu la hét. Anh nhảy khỏi ghế và vội vã đi tới đi lui trong phòng với đứa trẻ trên tay. nó bắt đầu nức nở thảm thiết, nín thở trong bốn năm giây rồi lại bật lên. Những bức tường mỏng của căn phòng vang vọng âm thanh. Anh cố xoa dịu nó nhưng nó càng khóc nức nở hơn. Anh nhìn khuôn mặt co rúm và run rẩy của đứa trẻ và bắt đầu lo lắng. Anh đếm được bảy tiếng nức nở không ngừng nghỉ và sợ hãi ôm lấy đứa trẻ vào lòng. Nếu nó chết!...

Cánh cửa bật mở và một phụ nữ trẻ chạy vào, thở hổn hển.

   “ Gì thế ? Nó là gì thế?” cô ấy hỏi .

    Đứa trẻ nghe thấy giọng mẹ liền bật khóc nức nở.

    “Không có gì, Annie... không có gì... Nó bắt đầu khóc…”

    Cô ném gói hàng của mình xuống sàn và giật lấy đứa trẻ từ tay anh.

“Anh đã làm gì nó thế?” cô kêu lên, nhìn chằm chằm vào mặt anh.

     Chandler phải chịu đựng trong một khoảnh khắc cái nhìn chằm chằm của cô và lòng anh anh se lại khi anh gặp phải sự căm ghét trong đó. Anh bắt đầu lắp bắp:

    `Không có gì đâu... Nó ... nó... bắt đầu khóc... Anh không thể... Anh không làm gì cả... Sao ?'

      Không thèm để ý đến anh, cô bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, ôm chặt đứa trẻ trong tay và thì thầm:

     “ Con yêu của mẹ ! Con sợ ư, cưng? Thôi nào, thôi nào ! Cưng ơi!...! Con cừu nhỏ của thế giới của mẹ!... Nín đi nào !'

      Chandler cảm thấy má mình ửng đỏ vì xấu hổ và đứng lùi ra ngoài khuất sau ánh đèn. Anh lắng nghe trong khi cơn nức nở kịch phát của đứa trẻ ngày càng giảm đi; và những giọt nước mắt hối hận bắt đầu trào lên mi mắt mình.

 

   (Một đám mây nhỏ được giới thiệu là Truyện ngắn trong ngày vào thứ Tư, ngày 16 tháng 6 năm 2021)

 

THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu

( tháng 9 / 2024 )

 

Nguồn:

 

https://americanliterature.com/author/james-joyce/short-story/a-little-cloud/