Tên đầy đủ
là McKenna James Andrew Joseph, thuở nhỏ học các trường St Patrick và St Dunstan,
những cơ sở giáo dục Thiên chúa giáo ở quê nhà. Sau đó, có một thời gian ngắn
làm việc cho ngành hoả xa rồi thử nghề viết báo trước khi chuyển về Ottawa làm
thư ký tại công sở. Ông chăm chỉ công tác nên không bao lâu được bổ nhiệm vào
làm tại Sở Công tác Ấn Độ, và làm thư ký riêng cho toàn quyền Sir John A.
Macdonald. Ông làm công việc này trong mười năm . Trong thời gian này, ông học
luật và thành thạo trong lĩnh vực luật pháp nên tiếp tục thăng tiến những năm
sau đó. Cuộc đời công chức với nhiều biến chuyển thời cuộc khiến ông không còn
thời gian để viết lách. Tháng tư năm 1917 ông xin nghỉ và về sống tại Victoria.
Tháng 2 năm 1918 ông in vài bài trên các báo ở địa phương.
McKenna qua đời vì bệnh tim năm 1919.
Tác phẩm
ông để lại không nhiều nhưng những truyện ngắn của ông đều gây tiếng vang.
Ngoài truyện ngắn, ông còn viết tiểu thuyết và kịch.
Truyện ngắn giới thiệu dưới đây nguyên tác có tên là Old Ghosts, đăng trên trang eastoftheweb.com, là một trong hai truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông ( truyện kia là Hope and Comfort. Tác giả khéo dẫn dắt người đọc lúc kể chuyện hiện tại lúc quay về quá khứ, theo những diễn biến tâm lý của nhân vật chỉ có cái tên ngắn ngủi là Jim. Ông già cô đơn và cô độc, ân hận về những điều đã làm lúc trẻ. Bút pháp lạnh lùng bằng những câu cụt ngủn, tả cảnh để nói về tình. Cái kết là một lối thoát cho nhân vật và cũng khiến người đọc thôi thấp thỏm trong cảnh ma quái âm u.
Đó là sinh nhật
của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng tám ẩm ướt này, giật mình bởi
âm vang tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Ông cứ nằm mãi, đầu óc rối bời gắn
ánh mắt vô hồn vào mảnh giấy hoa dán tường đã phai màu, đối diện chiếc giường bề
bộn của ông, nơi ánh mặt trời hắt ánh hồng lên.
“ Hôm nay
sinh nhật mình đây”, rốt cuộc ông nhớ ra. Mình đã bảy sáu rồi. Mau thật.
Ông trở dậy,
đau mỏi khắp người. Trong bộ pyjama sọc, ông ra đứng cạnh cửa sổ ngắm khu vườn.
Có quá nhiều việc phải làm. Để đó đã. Dạo này cỏ mọc um tùm, phải chi đừng đau
lưng. Ngoài vườn ngập nắng, những cây hồng đã bừng tỉnh. Cây hoa lão ông (
clematis ) vươn mình như đứa trẻ đang lớn, còn luống cúc vạn thọ rực vàng khoe
sắc.
“ Hôm nay sinh nhật mình.”
Từ nhà bên vọng
đến tiếng chó sủa. Một con mèo phóng lên bờ thành gắn mảnh thuỷ tinh lởm chởm
dưới gốc cây táo, rình lũ chim sẻ trong nắng sớm mai. Bên dưới cái lồng chim bị
hư, một con chuột đang gặm mẩu bánh mì bỏ lại từ hôm qua. Bóng đổ từ bờ rào khu
vườn trở nên nhỏ bé co rút, thẹn thùng tan trong nắng mai, vì sao cuối cùng mất
dấu khi vầng dương xuất hiện. Một ngày tháng tám ngột ngạt đã bắt đầu.
Jim Brenna, bảy
sáu tuổi, ngồi trong bếp. Im lặng. Toàn bộ căn nhà không một tiếng động, những
thứ quanh ông không còn chút sinh khí, mái nhà trĩu nặng, lò lửa đã tắt. Ông
đưa bàn tay gân guốc phủi những mảnh vụn bánh mì trên chiếc bàn nhựa và khi ông
lê những bước chân loạng choạng, bụi thêu dày vạt nắng. Ông lắng nghe sự trở
mình thức tỉnh của một ngày mới, tiếng tích tắc hối hả từ chiếc đồng hồ trên tủ,
tiếng lạch cạch gợi nhắc từ hộp thư.
Ông Jim bước
lên nhà trên lấy các hoá đơn rồi xem tờ rơi quảng cáo hàng giảm giá và những kỳ
nghỉ ở nước ngoài. Jim chưa từng rời khỏi Ireland, chưa hề vượt biển. Đôi mắt mỏi
mệt cố nhìn những bì thư cách một sải tay. Không hề có thiệp mừng sinh nhật để
thở phào một cái - những ngày này, còn ai nhớ?
Quay trở lại
nhà bếp quen thuộc, ông rọc thư xem. Còn hơn không có gì, dù là giấy báo nợ thì
ít nhất cũng có người liên lạc với ông. Xem thư một hồi thấy chán, Jim nhìn ánh
mặt trời hắt lại từ ấm trà cũ rồi bỏ những lá thư chẳng mấy hay ho lại để đọc
sau, ông đi châm thêm trà. Ông ngồi và nghĩ về những sinh nhật ngày trước. Tiệc
tùng chè chén say sưa, hát hò và chúc tụng, người chết lâu rồi ai nhớ. Thời ấy
ai còn nhớ.
Ông nói: Thời
gian như bóng câu qua cửa sổ!
Ông đang nói
với chính mình, hầu như ngày nào cũng vậy - còn ai lắng nghe nữa chứ! Đồng hồ
trên phòng khách điểm giờ, Jim mệt mỏi đứng lên và chuẩn bị đón một ngày mới. Mở
rađiô, toàn tin xấu. Trẻ em chết, những cảnh đời bất hạnh, bệnh tật, chiến
tranh. Ông mỉm cười khi quảng cáo chen vào. Thế giới trở nên điên loạn, tàn ác,
vô cảm, và dường như chẳng ai nhận thấy. Ông chuyển đài, giọng ngoại quốc liến
thoắng lảm nhảm trên sóng. Nói như húp canh, tra tấn người nghe về các vụ lạm dụng
trẻ em, chắc thế. Các phương tiện truyền thông thích sỉ nhục người vô tội bằng
những bản tin, những câu chuyện nóng hổi. Khác hẳn thời xưa, dường như yên tĩnh
hơn và trẻ em có thể chơi trên phố. Thời xưa… đó là khi nào nhỉ? Thời của Ring
-o - ring - o - rosy… ông lẩm nhẩm bản nhạc thiếu nhi.
Jim mỉm cười,
nhận ra vở nhạc kịch của Mozart và vai nữ giả nam Cherubino đã cứu được buổi sáng. Ông thay đồ,
đi dạo. Đội chiếc mũ len có lưỡi trai, ông chống gậy ra cửa trước, coi lại cửa
nẻo. Mọi thứ đều đã được khoá kỹ. Khi căn nhà rệu rã phát ra âm thanh kẽo kẹt
vào ban đêm, Jim nghĩ đến bọn trộm và run rẩy tưởng tượng cảnh chúng lẻn vào khống
chế ông.
Thế giới lạ kỳ
quá!
Đu đưa theo
giai điệu bài hát, Jim mở cửa và thấy Ellen đứng đó với nụ cười rạng rỡ.
“ Chúc mừng
sinh nhật, Jim “
Chẳng ngạc
nhiên nữa, Jim mỉm cười đáp lại rồi thở dài vì thực ra Ellen không ở đó.
Ellen Kelly,
mười bốn tuổi, tuần trước. Gần đây ông thấy Ellen luôn. Nàng đã đi theo ông suốt
quãng đường đến thư viện yên tĩnh hôm qua và khi ông ngồi nghỉ trong Công viên
Carolyn, cô đứng đợi ông dưới bóng cây.
“ Em không
quên được “, Ellen nói.
“ Anh biết,
anh biết mà “.
“ Anh sẽ ra
ngoài chơi chứ ? “
“ Nhưng không
thể, Ellen. Em chết rồi mà.”
Mặt trời
nghiêng trên đường, nghỉ chân trên nhà Jim còn Ellen nhạt nhoà theo bóng nắng.
“ Tội nghiệp
Ellen, “ Jim buồn bã thì thầm. “ Tội nghiệp em yêu đã chết rồi.”
*
Jim tránh
siêu thị. Nó quá phức tạp. Nhiều người đang cố trả tiền cho mau để về nhà. Trẻ
nhỏ khò khè lên cơn suyễn. Đám nữ choai choai oang oang chuyện cần giải quyết gấp.
Các cậu trẻ hói đầu, đeo vòng tai, lấn tới, mắt mơn trớn từng đường cong. Không
thèm liếc lại. Con gái đòi hỏi nhiều hơn thế. Xe đậu bừa bãi, bon chen hết sức
để kiếm ít tiền. Các bà nội trợ vội vã, khởi động, nhấn ga, khói xe khét lẹt,
những người phụ nữ được giải phóng với rất ít sự thoải mái. Sự kiệt sức ở các
siêu thị cùng quá nhiều sự lựa chọn. Quá lớn. Quá hiện đại. Quá cô đơn với Jim.
Ông đến các cửa
hàng nhỏ hơn, tán gẫu với người quen, mua sữa, trứng và một ổ bánh mì nhỏ còn
nóng hổi. Tới một đoạn nữa, bên ngoài cửa hàng từ thiện, bà Barret ở số hai
mươi chín gật đầu chào, hỏi:
“ Ông khoẻ
không? “ bà nhìn ông đứng trong quầy, vẻ săm soi.
“ Tuyệt, ơn
Chúa. Còn bà? “
“ Không thể tốt
hơn. “
Cuộc đời ngập
ngụa lời lịch sự giả dối.
Jim trở về chỗ
trú thân của ông già 76 tuổi lê chân qua những con đường ngột ngạt nóng bức.
*
Ông ngồi trên
chiếc ghế bành nơi phòng khách nhìn ra đường. Chuông đồng hồ điểm mười tiếng.
Ngày còn dài phía trước, dài theo nỗi buồn bất tận của đời ông. Mười giờ sáng
đáng sợ. Không có việc gì để làm, bên ngoài các cô gái mặt mày sáng rỡ thì luôn
vội vàng, nắng trên đầu, thời gian trên tay. Những đôi chân nhún nhảy, vớ đen,
váy ngắn, ngắn đến tội lỗi, gọi mời.
Mừng là mình
không còn trẻ nữa.
Jim khinh
ghét thời gian này trong ngày. Quá nóng để dạo ra vườn, ngồi không cũng chán,
chẳng nghĩ được điều gì hay ho ngoài việc lo bữa trưa. Ăn uống qua loa cho cả
buổi chiều lê thê sầu rũ như con đường vắng vô định. Jim cố đọc sách nhưng có
đeo gương vẫn thấy kèm nhèm, không nhìn rõ chữ.
“ Ellen,” ông
khẽ gọi và tên nàng vang vọng trong đầu ông như một hồi chuông.
Ellen Kelly,
Kelly Ellen, Kellen Nelly.
Jim đùa vui
cùng nàng. Mắt ông khép lại. Ông đang chìm vào cơn mơ thì nghe tiếng loảng xoảng
từ cái nắp đồng của hộp thư vẳng đến. Jim chậm rãi đi tới trước, mở nhẹ cửa lớn.
Ellen ở đó, mười lăm tuổi, trông thật đáng yêu, rạng ngời dưới vạt nắng chiều,
như phép mầu. Ellen Kelly, nét mặn nồng tinh khôi thiếu nữ và trong sáng hồn
nhiên trẻ thơ.
“ Anh không
ra ngoài chơi sao, Jim ?”
Từ phía sau,
một bóng ma khác trong hành lang tối, mẹ của Jim, mỉm cười.
“ Ellen yêu
quý, nó bận đi mua đồ hộ cô rồi.”
Jim, mười sáu
tuổi, đang rạo rực niềm vui, mắc kẹt ở giữa hai phụ nữ, đành im lặng, dù biết
tâm hồn Ellen sẽ nhói đau.
“ Vậy em sẽ
theo anh.” Ellen vẫn rất dễ thương, luôn làm vừa lòng mọi người. “ Chúng mình sẽ
cùng đi ra cửa hàng. Như thế được chứ ?”
Mẹ đồng ý. Bà
yêu thương Ellen, coi cô bé hàng xóm ấy như con gái mình - một đứa con mà bà tới
ngày tóc điểm bạc vẫn còn ao ước.
“ Tất nhiên
là được, cưng.”
Jim và Ellen
đi ra đường trong khi mẹ đứng ở cửa, cứ vẫy tay mãi cho đến khi họ khuất phía
bên kia cổng. Người mẹ nào chẳng lo chuyện con cái qua đường, nhiễm bệnh. Nào
lao, viêm phổi, bại liệt, sởi, quai bị…
là những bệnh quái ác. Thời ấy, nhiều người chết trẻ.
Jim và Ellen,
đầu chụm vào nhau, lực hút tình yêu kéo họ sát hơn, nói, cười, một đôi không lẫn
vào đâu được. Say đắm nồng nàn. Mái tóc đen mượt của Ellen loà xoà uốn quanh
đôi tai nhỏ xíu dễ ghét. Nàng im lặng và bình thản như chị Hằng.
“ Em sẽ yêu
anh mãi mãi chứ ? “ Jim hỏi.
“ Mãi mãi và
mãi mãi.” Ellen quả quyết, siết chặt tay anh.
Trên đường về
họ đi tắt, băng qua cánh rừng già tháng tám. Một lối tắt dài. Vẫn nói chuyện,
những lời nói của họ rời rạc bởi những khoảng lặng, những giây phút nóng ran, lừng
khừng đầy lo âu. Giữa một màu xanh thẳm, họ ngồi xuống chỗ bóng râm và hôn nhau
trong đám dương xỉ, một cách ngây thơ. Họ đã hôn nhau như thế nhiều năm rồi.
*
Cuộc đời là một
kỳ nghỉ hè cho đến năm Jim mười bảy. Lúc đó, Jim đi đến Cork với cha. Chuyến đi
vì việc kinh doanh. Cork thật tráng lệ, thuyền bè nhấp nhô, những thánh đường
uy nghi của thành phố cảng xinh đẹp Cobh, rồi còn khách sạn Metropole. Sang trọng.
Tiệc tối và món tráng miệng. Cà vạt đen, xì gà nâu. Rượu gin và nước khoáng nặn
thêm tí chanh. Giờ thì ở Cork luôn là rượu gin không pha và kèm lát chanh làm
nhạt phai ký ức trong Jim. Chanh đắng.
Jim cùng bạn
của cha. Một bữa tiệc nồng mùi son phấn. Cha và một người bạn bỏ về sớm. Cha cảm
thấy như mới kết hôn. Nháy mắt kiểu trai tơ. Sợ chi. Cũng không chắc lắm.
Jim quay cuồng
cho đến sáng với chiếc dây chuyền - bông tai. Lên trên gác của căn nhà gỗ sồi,
vào phòng, cô gái nói cha mẹ cô đi vắng, còn Jim thì đã thấm say.
“ Để anh đỡ
em lên giường”, Jim nói, hiểu rõ luật chơi và biết khi nào có thể ăn gian.
Ellen mười
sáu thoảng mùi của tình yêu và hoa hồng. Cô gái này hai mươi và nồng mùi rượu
gin. Tai đeo chuỗi ngọc, đá trong tim. Trút xiêm y, vào phòng tắm. Jim đã gục
ngã. Ellen mười sáu đã cho anh tất cả trừ điều đó. Nàng quyết giữ cho đêm tân
hôn. Jim muốn nhiều hơn thế. Ngọc ngà và thú tính.
Lỗi tại tôi,
Ellen, lỗi nặng tại tôi.
Cô tóc vàng đến
Dublin với Jim đã thành đàn ông và đang chìm trong mê đắm. Máu trên tuyết. Mười
bảy, Ellen bị bỏ rơi như món đồ quá hạn.
“ Anh không cần
em nữa sao ? “
“ Không.”
Ellen cắn chặt
môi. Mắt ứa lệ đỏ hoe.Tâm hồn khô héo. Ellen nói lời tạm biệt.
“ Không, anh
không thích em.” Jim tàn nhẫn bồi thêm.
Jim đã quyết
định một cách lạnh lùng. Nàng Ellen bị tình phụ vẫn âm thầm chờ Jim bớt trẻ
con, chín chắn hơn.
*
Năm sau, anh
dẫn cô ngọc trai đi nghỉ, chẳng hề có lời tạm biệt Ellen xanh xao, mười tám, cô
đơn, da vàng vì bệnh lao đang gặm nhắm lá phổi, còn tình yêu phũ phàng làm tan
nát trái tim. Ellen trong trắng ngây thơ như cánh hoa xác xơ trên cỏ, lặng lẽ
ra đi. Với nàng Ellen trinh nữ, mũ cô dâu là vòng hoa đầy gai nhọn. Mạng che mặt
thêu bằng nước mắt.
Ellen ngã bệnh.
Ngày Jim trở về, những ngón tay run rẩy co quắp và gương mặt già nua đẫm lệ của
mẹ chào đón anh.
“ Tội nghiệp
Ellen”, mẹ thều thào. Tôn trọng người đã khuất.
Jim bừng tỉnh.
Muộn rồi.
Máu đen đã ứa
ra nơi khoé môi Ellen. Những bông hoa băng giá trên mộ. Lá úa tan tác trong gió
lạnh, bay đầy trời trút xuống mảnh đất Ellen nằm. Không còn nụ hôn nồng nàn ấm
áp và con tim rộn rã chất ngất yêu thương. Ellen mười chín, nàng trinh nữ mười
chín, không bao giờ hai mươi. Mẹ phía sau quan tài, mẹ trong ngôi mộ của chính
mình, về nơi chín suối. Và trời đổ mưa, mưa, mưa, suốt năm mươi năm dài, không
tạnh từ ngày ấy.
Người yêu
vĩnh viễn rời xa.
*
Tiếng chuông
đồng hồ. Đinh đong. Một. Đinh. Hai. Và cứ thế.
Jim vật vã
cơn mơ. Ông gọi tên nàng trong đêm tối.
“ Ellen? “
Bóng đỏ thẳm
sâu im lặng như lời giã biệt khắc khoải từ
miệng người sắp chết. Nghĩa trang đá cẩm thạch hệt những đôi môi, lạnh
băng. Sỏi đá rêu phong. Kỷ niệm trở lại rời rạc nhưng sống động trong ông, ký ức
choán lấy, lấp đầy và ám ảnh hiện tại. Rùng mình, run rẩy, Jim tiến về phía cửa
sổ ngập nắng. Xoa xoa bàn tay gân guốc. Cầu nguyện. Sau đó, ông chuẩn bị bữa ăn
trưa. Cà chua và thịt nguội. Ông mơ mơ màng màng cảnh xế chiều. Trên đài phát
thanh, một giọng nữ hát bài Four Last Songs. Không cần phải hiểu lời.
Nỗi buồn sao ngọt ngào đến vậy. Ai nói điều đó nhỉ ?
Hoàng hôn. Ông ngồi ngóng tiếng chim muông lúc mặt trời lặn.
Không có gì để xem ngoại trừ chim két và chim sẻ, không có gì để nghe, ngoại trừ
tiếng cánh bướm.
Rất lâu sau đó, đồng hồ trong phòng khách đổ mười hai tiếng.
Đêm đến, nóng bức.
Trườn lên chiếc giường trống, Jim tắt đèn rồi nhìn những
cái bóng chen chúc lộn xộn trên những mảng tường dán giấy hoa. Những vì sao hắt
ánh lên gương mặt u ám của ông. Trăng tháng tám chiếu qua cửa sổ. Dịu nhẹ êm đềm
như sự tĩnh lặng, im ắng như hoa táo rơi, ngọt ngào như lúm đồng tiền trên má
Ellen khi cười. Ellen đứng đó, bên cạnh giường ông cùng nụ cười mừng vui pha lẫn
buồn tủi. Ellen thuỷ chung đang chờ đợi.
“ Bây giờ anh có cần em không? “
“ Có, lạy Chúa nhân từ, có. “
Ông nói, “ Giờ anh có thể đi rồi. Ellen, nếu em muốn. Rốt
cuộc, anh chết là đúng.”
“ Em rất vui. Em đã chờ đợi suốt một thời gian dài đằng đẵng.”
Jim nâng mình khỏi giường, bỏ lại bảy mươi sáu năm trời
trên chăn gối, bay vút qua ánh trăng với Ellen trong vòng tay, như sao chổi vào
cõi Vĩnh hằng, trong khi chiếc đồng hồ phòng khách đã chết.
Mãi mãi và mãi mãi.