GEORGE ORWELL, tên thật là Eric Arthur Blair, sinh ngày 25/6/1903 tại Motihari, Bengal ( tên hiện nay là Bihar ) khi Ấn độ còn là thuộc địa của đế chế Anh. Cha ông khi đó là nhân viên của Ty Nha phiến, thuộc Sở Dân sự. Ông là con thứ hai trong gia đình. Mẹ ông xuất thân trong một nhà lái buôn chè. Mới lên 1 tuổi, ông được đưa về chính quốc, được gửi vào một trường nhỏ thuộc giáo phái Anh, nơi đây chị gái ông từng theo học.
Hai năm sau ông được tiến cử với hiệu trưởng của một trong những trường dự bị thành công nhất của Anh vào thời đó ( Trường St. Cyprian’s School, Eastbourne, Sussex ). Tại đây, ông được cấp một nửa học bổng. Kết quả học tập khá tốt, ông tốt nghiệp được ở trường chất lượng cao vốn chỉ dành cho con nhà khá giả. Năm 1922, không đủ tiền vào đại học, Blair gia nhập Indian Imperial Police, phục vụ tại Miến Điện. Những điều tai nghe mắt thấy ở vùng thuộc địa Nam Á này đã khiến ông chán ghét chủ nghĩa đế quốc. Quay trở lại Anh, ông từ bỏ cuộc đời công chức để dồn sức phấn đấu trở thành nhà văn. Từ năm 1923, ông bắt đầu công bố những “ sáng tác người lớn “ của mình. Ông bắt đầu lăn lộn với các tầng lớp dưới, tìm hiểu những cảnh đời ngang trái và lầm than ở cả Anh lẫn Pháp. Từ năm 1935, ông bắt đầu sử dụng bút danh George Orwell vì không muốn cha mẹ biết về những trải nghiệm bần cùng của mình. Về giai đoạn sống và chiến đấu ở Tây Ban Nha, ông đã viết tiểu thuyết tư liệu Kỷ niệm Catalonia ( 1926 ), và Ký ức chiến tranh ở Tây Ban Nha ( 1943 ).
Khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ,
Orwell mặc dù tuyên bố rằng chính thể ở Anh còn tồi tệ hơn ở nước Đức phát xít
nhưng vẫn xung phong ra mặt trận, tuy nhiên ông bị từ chối vì vết thương trong
chiến tranh Tây Ban Nha. Ông về hậu phương, làm phóng viên trên Đài Phát thanh
BBC, dẫn các chương trình chống phát xít. Trong thời gian này, ông viết tiểu
thuyết Trại Súc Vật ( Animal Farm ) , ám chỉ rõ nét Liên Xô, khi hoàn thành bị
từ chối in cả ở Anh lẫn Mỹ. Phải chờ đến năm 1945, Trại Súc Vật mới được công bố
và trở thành vũ khí của những lực lượng chống cộng ở phương Tây.
Ông mất
năm 1950 vì bệnh lao. Orwell được đánh giá là một nhà văn mang nhiều mâu thuẫn
trong mình, một người theo chủ nghĩa cá nhân và tuyệt đối chính trị.
Orwell chỉ
sống tới tuổi 46 nhưng đã để lại nhiều xét đoán khác biệt. Tác phẩm của ông
không phải ở đâu cũng được đón nhận thuận chiều.
Đoản văn giới thiệu dưới đây có tên là
Bookshop Memories, Hồi ức về một tiệm sách, đúng hơn là những hồi ức của một
người bán sách cũ. Tác giả viết truyện này năm 1936, kể về thời gian ông làm việc
như một nhân viên bán sách bán thời gian tại
tiệm bán sách cũ Booklover’ s
Corner toạ lạc ngay góc phố Pond Street và South End Green, thành phố London,
nước Anh. Hiện nay tiệm này không còn nữa mà biến thành nhà hàng pizza, tuy
nhiên ở đó còn gắn tấm biển ghi rằng: Gworge Orwell, nhà văn, từng sống và làm
việc trong một tiệm sách ngay vị trí này.
Những người
mê sách cũ hẳn sẽ tìm thấy nhiều đồng cảm khi đọc những chi tiết về mua, bán
sách cũ. Và những ai đã có dịp đến thủ đô Paris của nước Pháp chắc sẽ không
quên những tiệm sách cũ dọc bờ sông Seine. Từ năm 1859, Hội đồng thành phố Paris
quyết định dành một dãy đất bên bờ sông Seine giúp những người bán sách cũ được “ định cư “ cố định để bán sách cũ từ lúc mặt
trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn.
Năm 1932, bờ kè sông Seine với những người bán sách cũ được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới và cũng từ đó, sông Seine được đặt biệt danh là “ dòng sông duy nhất trên thế giới trôi giữa những kệ sách “.
Ernest Hemingway, nhà văn lừng danh của Mỹ, và nhiều tác giả khác, đã từng lang thang tại khu vực cầu cảng này, lật từng trang sách cũ và thậm chí tìm những tác phẩm của chính mình được trưng bày trong các kệ sách đặt sát nhau. Ước tính có trên 300000 cuốn sách được bày bán dọc theo con đường bán sách cũ bên bờ sông Seine. Nơi tập trung đông nhất là lối dẫn vào Khu phố La tinh ( Quartier Latin ), nơi có Trường Đại học Sorbonne nổi tiếng.
Đừng tưởng chỉ có Anh, Pháp mới có tiệm bán
sách cũ. Ngay tại Saigon cũng không thiếu. Bạn thử tìm tới Nhà sách Khải Vinh,
43 Trần Nhân Tôn, Quận 5. Nơi đây có bán sách báo cũ và mới. Một vài địa chỉ
khác để bạn tham khảo:
Trung Tâm
Sách Cũ, 50, Võ Thị Sáu, Tân Định, Quận 1.
Một địa chỉ khác, rộng rãi hơn là Đường Sách Thành phố, dọc theo đường Nguyễn Văn Bình, Bến Nghé, Quận 1.
Khi tôi làm việc tại một tiệm bán sách cũ - nếu bạn chưa từng làm ở một nơi như vậy thì rất dễ hình dung ra, nó là một kiểu thiên đường nơi những quý ông lớn tuổi lịch lãm lật giở không ngừng những tập giấy bọc da - điều gây cho tôi ấn tượng nhất là thực sự rất hiếm người ham đọc sách. Tiệm sách của chúng tôi có một kho tài liệu đặc biệt thú vị, tuy nhiên tôi ngờ rằng trong số khách hàng chỉ có mười phần trăm phân biệt được sách hay với sách dở. Những người kiếm bản in đầu tiên phổ biến hơn nhiều so với những người yêu thích văn chương, nhưng những sinh viên phương Đông kỳ kèo mặc cả những giáo trình còn đông hơn nữa, và thường xuyên nhất là các bà các cô hời hợt đi tìm mua quà sinh nhật cho cháu mình.
Thường xuyên lui tới tiệm sách của chúng tôi là loại người sẽ gây phiền toái bất kỳ ở đâu nhưng lại có cơ hội đặc biệt trong một tiệm sách. Chẳng hạn, bà già đáng yêu “ muốn có một cuốn sách không còn tái bản “ ( một nhu cầu rất phổ biến ) , rồi một bà già thân thương khác từng đọc một cuốn sách hay từ năm 1897 và hỏi liệu bạn có thể tìm cho bà một cuốn như vậy không. Thật không may là bà không nhớ nhan đề cuốn sách hoặc tên tác giả, hoặc sách nói về đề tài gì, nhưng bà lại nhớ rõ bìa sách màu đỏ.Tuy nhiên, ngoài những loại người trên còn hai loại người nổi tiếng khác luôn ám ảnh các tiệm bán sách cũ. Một là những người phát ra mùi bánh mốc cứ ngày nào cũng ghé tiệm, đôi khi nhiều lần một ngày, và cố gạ bán cho bạn những cuốn sách chẳng có giá trị. Thứ hai là những người đặt sách với số lượng lớn mà không có ý định trả tiền. Tiệm chúng tôi không bán chịu, do đó chúng tôi sẽ xếp những cuốn sách đó sang một bên, hoặc nếu cần thì đặt hàng giùm cho những người sẽ sắp xếp đến nhận về sau. Hầu như một nửa số người đã đặt sách từ chúng tôi không quay lại bao giờ. Đó là điều làm tôi đau đầu nhất. Cái gì đã khiến họ làm như vậy? Họ đến và yêu cầu vài cuốn sách quý hiếm và đắt tiền, và bắt chúng tôi hứa đi hứa lại là sẽ giữ chúng cho họ, rồi biến mất không bao giờ trở lại. Nhiều người trong bọn họ hẳn là mắc chứng hoang tưởng. Họ thường nói về mình một cách phô trương và bịa ra những câu chuyện tài tình nhất để giải thích làm thế nào mà họ quên không mang theo tiền - những câu chuyện mà trong nhiều trường hợp có thể làm người khác tin sái cổ. Trong một thành phố như London luôn có nhiều bệnh nhân hoang tưởng qua lại ngoài đường, và họ thường nhắm đến những tiệm sách, bởi vì đó là một trong những nơi hiếm có mà họ có thể ngồi hàng giờ mà không mất tiền. Cuối cùng người ta cũng sẽ nhận ra ngay những kẻ này. Những lời khoa trương của bọn họ toàn là những điều cũ mèm và bâng quơ về bản thân. Thường thì chúng tôi đối phó với loại người hoang tưởng, xếp những cuốn sách họ yêu cầu sang một bên rồi sau đó đặt trở lại trên kệ khi họ quay đi. Tôi nhận thấy không ai trong bọn họ trả tiền để mang sách đi cả, chỉ đơn giản đặt hàng - tôi cảm thấy là điều đó khiến họ có ảo tưởng là mình đã tiêu tiền.
Giống như hầu hết những tiệm bán sách cũ, chúng tôi cũng kinh doanh thêm nhiều mặt hàng khác nữa. Chẳng hạn, chúng tôi bán máy đánh chữ cũ mèm, và cả tem thư, những con tem chết. Những người sưu tập tem là những người kỳ quặc, ít nói, đủ thành phần, đủ mọi lứa tuổi, nhưng đa số thuộc phái nam, rõ ràng là nữ giới không mấy đặc biệt hứng thú với việc lắp đầy những cuốn album bằng những mẩu giấy màu nhỏ xíu. Chúng tôi cũng bán những lá số tử vi giá sáu xu do những người được cho rằng đã dự báo đúng trận động đất ở Nhật Bản viết ra. Chúng được bỏ trong phong bì dán kín và tôi chưa bao giờ thử mở ra xem, nhưng những người mua chúng thường trở lại và nói rằng những lá số họ mua rất “ đúng”. ( Chắc chắn lá số tử vi nào cũng đúng nếu nó phán rằng bạn rất hấp dẫn đối với người khác giới và sai lầm tồi tệ nhất của bạn là sự rộng lượng. ) Chúng tôi bán chạy nhất sách dành cho trẻ con, nhất là sách giảm giá. Sách mới dành cho trẻ con toàn viết về những điều khủng khiếp, đặc biệt khi bạn thấy chúng hàng đống trong tiệm. Riêng tôi thường giới thiệu cho bạn trẻ đọc sách của Petrenius Arbiter (1) thay vì Peter Pan, nhưng ngay cả Barrie ( 2 ) cũng còn mạnh mẽ và bổ ích hơn so với một số người bắt chước ông sau này. Vào dịp lễ Giáng sinh, chúng tôi thường dành mười ngày đánh vật với thiệp và lịch, khoảng thời gian này tuy vất vả nhưng có lời khi mùa lễ kéo dài. Điều này tạo cơ hội cho tôi biết được những trò giễu cợt thô thiển khai thác trên tình cảm Thiên Chúa giáo. Những nhân viên chào hàng đến từ các hãng thiệp Giáng sinh thường gửi cho chúng tôi danh mục sản phầm của họ từ đầu tháng sáu. Tôi còn nhớ mãi cụm từ ghi trong hoá dơn của họ: “ 2 tá. Chúa hài đồng với lũ thỏ “.
Nhưng nghề làm thuê chính của chúng tôi là cho thuê sách - thường với giá “ hai xu không cần đặt cọc “ cho một cuốn sách năm hay sáu trăm trang, toàn là truyện. Bọn trộm sách phải yêu quý những tiệm sách lắm ! Bởi đây là cách kiếm tiền dễ nhất trên thế giới khi thuê một cuốn với giá hai xu ở tiệm này, sau đó gỡ nhãn và bán nó cho một tiệm khác để lấy một shilling. Dù vậy, các tiệm sách thường nhận thấy thà chấp nhận mất một số sách nhất định ( mỗi tháng chúng tôi mất khoảng hơn chục cuốn ) còn hơn là bắt khách phải đóng tiền cọc.
Tiệm chúng tôi nằm ngay vùng giáp ranh giữa
hai quận Hampstead và Camden Town, và là nơi
mọi loại người lui tới thường xuyên,
từ những nhà quý tộc cho đến người soát vé xe buýt. Có lẽ khách hàng thường
xuyên của chúng tôi là những đại diện tiêu biểu của giới đọc sách London. Vì vậy
điều đáng lưu tâm là tác giả nào được ưa chuộng nhất trong tiệm sách của chúng
tôi - phải chăng là Priestley
( 3 ) ? hay Hemingway ( 4 )? Walpole ( 5 ) ? hay Wodehouse ( 6 ) ? Không, đó là Ethel M. Dell ( 7 ), tiếp theo là Warrick Deeping ( 8 ), và thứ ba là Jeffrey Farnol ( 9 ). Tất nhiên các tiểu thuyết của Dell chỉ có phụ nữ đọc, nhưng phụ nữ mọi thành phần và lứa tuổi, chứ không phải như người ta thường nghĩ, chỉ các bà các cô không chồng đang khao khát và mấy bà vợ béo ù trông cửa hàng thuốc lá. Điều đó không có nghĩa là đàn ông không đọc tiểu thuyết, nhưng sự thật là họ tránh xa loại sách đó. Nói nôm na, những gì người ta có thể gọi là tiểu thuyết tầm thường, hạng xoàng, loại ba xu. Galsworthy ( 10 ) - pha loãng là tiêu chuẩn của tiểu thuyết Anh - dường như chỉ tồn tại dành cho phụ nữ. Đàn ông đọc một trong hai loại là nghiêm túc hoặc trinh thám. Khả năng ngốn truyện trinh thám của họ thật đáng nể. Tôi biết một trong những vị khách quen của chúng tôi mỗi tuần đọc bốn hoặc năm cuốn truyện trinh thám trong hơn một năm, chưa tính những cuốn ông mượn từ những nơi khác. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là không bao giờ ông đọc một cuốn nào đó hai lần. Rõ ràng là ông có một sức chứa phi thường ( tôi nhẩm tính những trang sách mà ông đã đọc hàng năm có thể phủ lên một bề mặt gần ba phần tư mẫu Anh ) những điều đã đọc và ghi nhớ chúng. Ông chả thèm quan tâm tên sách hoặc tên tác giả, nhưng chỉ cần nhìn thoáng qua cuốn sách là ông có thể xác định rằng “ nó đã được đọc rồi “.
Trong một tiệm cho thuê sách, bạn biết được thị hiếu thực sự chứ không phải là sự giả bộ của mọi người, và một điều bạn sẽ ngạc nhiên rằng những tác giả cổ điển Anh không hề được ưa chuộng. Thật vô ích khi cố đưa Dickens, Thackeray, Jane Austen, Trollop (11 ), v.v., vào các tiệm cho thuê sách bình dân, chẳng ai rớ tay vào những cuốn sách của họ đâu. Chỉ cần nhìn thấy một cuốn tiểu thuyết từ thế kỷ 19 người ta liền nói, “ Ồ, nhưng nó lạc hậu rồi! “ Và lảng đi ngay lập tức. Tuy nhiên sách của Dickens luôn dễ bán, Shakespeare cũng vậy. Dickens là một trong những tác giả mà mọi người luôn “ phải đọc “, và giống như Kinh Thánh, ông được biết đến rộng rãi một cách gián tiếp. Người ta nghe kể mà biết đến Bill Sikes ( 12 ) là một tên đầu trộm đuôi cướp, hay là Micawber ( 13 ) có cái đầu hói, cũng như người ta nghe kể mà biết Kinh Thánh ông Moses được tìm thấy trong một cái thúng giữa đám lau sậy và được Thiên Chúa cho xem lưng. Một điểm đáng chú ý là sách từ Hoa Kỳ ngày càng được phổ biến rộng rãi. Điều nữa, - làm cho các nhà xuất bản rơi vào khủng hoảng hai hay ba năm một lần - là truyện ngắn không được ưa chuộng. Có người khi thuê sách lần nào cũng: “ Tôi không cần truyện ngắn” hay “ Tôi không mê những mẩu chuyện cụt lủn “. Một vị khách người Đức hay ghé tiệm chúng tôi thường nói như thế. Nếu bạn hỏi họ lý do, đôi khi họ giải thích rằng mỗi lần đọc một truyện ngắn thì phải mất công làm quen với một đám nhân vật mới, họ thích “ nghiền ngẫm “ một cuốn tiểu thuyết mà không cần bận tâm thêm nữa sau chương đầu tiên. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng lỗi ở đây thuộc về tác giả chứ không phải là người đọc. Hầu hết các truyện ngắn Anh - Mỹ hiện đại hoàn toàn vô hồn và vô giá trị so với tiểu thuyết. Truyện ngắn là những câu chuyện khá phổ biến, truyện ngắn và tiểu thuyết của D. H. Lawrence ( 14 ) đều phổ biến như nhau.
Tôi có muốn trở thành một người bán sách chuyên nghiệp không? Câu trả lời là không - mặc dầu ông chủ đối xử tử tế với tôi và tôi đã có những tháng ngày thật hạnh phúc nơi tiệm sách.
Với một vị trí tốt và số vốn vừa đủ, bất cứ người có học nào cũng có thể sống an nhàn bằng cách mở một tiệm sách, Trừ khi đán thân vào con đường buôn bán sách “quý hiếm”, thì đây không phải là một nghề khó làm, và bạn khởi nghiệp với một lợi thế tuyệt vời nếu bạn biết mọi thứ bên trong cuốn sách. ( Hầu hết những người bán sách đều không biết. Bạn có thể kiểm chứng bằng cách lướt qua những tờ báo thương mại, nơi quảng cáo đủ mọi nhu cầu của họ. Nếu bạn không đọc được mẩu quảng cáo cuốn Decline and Fall của Boswell thì chắc chắn bạn sẽ tìm thấy bài đăng về cuốn The Mill on the Floss của T.S. Eliot (15 ) . Ngoài ra, đó là một nghề kinh doanh đầy tính nhân văn không thể bị tầm thường hoá đến một mức độ nhất định. Các hiệp hội không bao giờ ép một tiệm sách nhỏ lẻ phải đóng cửa như họ đã ép những tiệm tạp hoá và cửa hàng sữa. Nhưng làm ở tiệm sách rất tốn thời gian. Tôi chỉ là một nhân viên bán thời gian, nhưng ông chủ yêu cầu tôi phải làm bảy mươi hai giờ một tuần, chưa tính những giờ làm thêm trong những chuyến gom hàng bên ngoài. Đó còn là một nghề có hại cho sức khỏe. Một quy luật trong tiệm sách là vào mùa đông thì lạnh khủng khiếp, vì nếu nó quá ấm thì các cửa sổ sẽ bị mờ đi, mà những người bán sách cũ thì sống nhờ vào những ô cửa sổ. Những cuốn sách cho ra nhiều bụi hơn và bẩn hơn bất kỳ thứ nào khác được con người phát minh ra, và mép trên cùng của sách là nơi lý tưởng chứa xác của lũ ruồi nhặng bị chết.
Nhưng lý do thực sự tôi không thích theo đuổi nghề bán sách là vì khi tôi làm nghề đó tôi đánh mất đi tình yêu đối với sách. Một người bán sách thường hay nói dối về những cuốn sách và điều đó tạo cho anh ta sự chán ghét đối với chúng, điều tồi tệ đó cứ bám riết lấy anh ta khi mà ngày nào anh cũng lặp đi lặp lại việc lau bụi và sắp xếp chúng. Có một thời tôi thực sự say mê những cuốn sách - ngắm nhìn, ngửi và cảm nhận chúng, nhất là đối với những cuốn ra đời hơn nửa thế kỷ. Không có gì làm tôi hài lòng nhiều như thắng một cuộc đấu giá với thật nhiều sách mà chỉ tốn có một shilling. Một niềm phấn khích đặc biệt với những cuốn sách cũ kỹ mà bạn bất ngờ vớ được trong bộ sưu tập : những tập thơ nhỏ nhắn từ thế kỷ 18, những cuốn từ điển lỗi thời, những tập tiểu thuyết lẻ bộ bị lãng quên, những bộ tạp chí phụ nữ của những năm sáu mươi. Những lúc đọc bất chợt - chẳng hạn trong bồn tắm, vào đêm khuya khi bạn quá mệt mỏi không thể chợp mắt, hoặc mươi lăm phút rảnh rỗi trước giờ ăn trưa - thì không gì quý bằng một số tạp chí Girl’s Own Paper (16 ). Nhưng ngay khi tôi đến làm việc tại tiệm sách tôi ngừng mua sách. Nhìn khối sách khổng lồ, năm hay mười ngàn cuốn một lúc, nó làm tôi chán ngấy và thậm chí muốn đổ bệnh. Giờ đây thỉnh thoảng tôi có mua sách, nhưng chỉ khi đó là cuốn sách mà tôi thực sự muốn đọc, mà không thể mượn được, và tôi không bao giờ mua sách đồng nát. Mùi vị ngọt ngào của những trang giấy cũ nát không còn quyến rũ tôi nữa. Trong tâm trí tôi lúc nào cũng in đậm hình ảnh những vị khách hoang tưởng và xác chết của lũ ruồi nhặng.
Chú thích ( của người dịch )
1.
Petrenius Arbiter : ( 27-66 trước CN ),
một cận thần La Mã dưới triều đại hoàng đế Nero. Ông là tác giả của tiểu thuyết
phiêu lưu trào phúng Satirycon mô tả bức tranh xã hội La Mã vào thế kỷ thứ 1.
2.
Barrie, tức James Matthew Barrie ( 1860
- 1937 ), đệ nhất nam tước, tiểu thuyết gia, nhà viết kịch người Scotland, con
của một gia đình thợ dệt, được biết đến là tác giả của tác phẩm Peter Pan.
3.
Joseph Priestley ( 1733 - 1804 ), nhà
triết học tự nhiên, nhà hoá học, nhà ngữ pháp, nhà giáo dục, nhà lý luận chính
trị tự do, đã xuất bản hơn 150 tác phẩm. Ông ghi tên mình trong lịch sử với việc
đã tìm ra oxy, và cô lập nó ở trạng thái khí.
4.
Ernest Hemingway ( 1899 - 1961 ), tiểu
thuyết gia, nhà văn viết truyện ngắn, nhà báo người Mỹ, giải Nobel văn học năm
1954, tác giả của nhiều cuốn nổi tiếng ( For Whom the Bell Tolls , Chuông nguyện
hồn ai ; The Old Man and the Sea, Ông già và biển cả ; A Farewell to Arms , Giã
từ vũ khí )…
5.
Hugh Walpole ( 1884 - 1941 ), nhà văn
người Anh sinh ra ở New Zealand, con trai của một giáo sĩ Anh giáo, gia đình muốn
ông theo nghiệp trong giáo hội nhưng ông chọn nghề nhà văn. Cuốn tiểu thuyết đầu
tiên của ông đạt được thành công thực sự là Mr Perrin and Mr Traill, một câu
chuyện bi hài của một cuộc đụng độ chết người giữa hai thầy giáo. Trong những
năm 1920 và 1930, ông đã nhận được nhiều yêu cầu từ công chúng để đi thuyết giảng
về văn học được trả lương rất cao.
6.
Pelham Greenville Wodehouse ( 1881 -
1975 ), nhà văn người Anh, một trong những người hài hước được đọc nhiều nhất
trong thế kỷ XX
7.
Ethel M. Dell ( 1881 - 1975 ), nhà văn
người Anh, tác giả của hơn 30 tiểu thuyết lãng mạn nổi tiếng và một số truyện
ngắn từ năm 1911 đến năm 1939.
8.
Warwick Deeping ( 1877 - 1940 ), nhà văn
người Anh chuyên viết tiểu thuyết và truyện ngắn, cuốn nổi tiếng nhất là Sorrel
and Son ( 1925 ).Cuốn này đã được chuyển thể thành phim ba lần, lần đầu là
phim câm ( 1927 ), được quay lại vào năm 1934, phim có âm thanh, và đến năm
1984 trở thành series phim truyền hình.
9.
Jeffrey Fornol ( 1878 - 1952 ), nhà văn
người Anh. Từ năm 1907 cho đến khi qua đời, ông đã viết hơn 40 tiểu thuyết lãng
mạn, lấy bối cảnh của thời kỳ Vương triều Anh và những kẻ cuồng dâm. Ông cùng với
Georgette Heyer đã khởi xướng thể loại lãng mạn Regency. Cuốn The Amateur Gentleman được
chuyển thể thành phim năm 1920.
10.
John
Galsworthy ( 1867 - 1933 ), nhà văn, nhà viết kịch người Anh, đoạt giải Nobel Văn học năm 1932.
Ban đầu ông học luật, trở thành luật sư nhưng rồi bỏ nghề, bắt đầu viết văn do
chịu ảnh hưởng của người tình ( lúc đó đang là vợ của một người anh em họ, bảy
năm sau, 1904, họ mới cưới nhau.) Những tác phẩm đấu tiên của ông được xuất bản
dưới bút danh John Sinjohn.
11.
Anthony
Trollop ( 1815 - 1882 ), tiểu thuyết gia người Anh thành công và được biết đến
trong thời đại Victoria.
12.
Bill
Sikes là nhân vật trong tiểu thuyết Oliver Twist của Charles Dickens.
Đây là tiểu thuyết thứ hai của
Charles Dickens. Cuốn sách ban đầu được xuất bản ở Bentley
Miscellany là một loại sách ra từng kỳ vào mỗi tháng bắt đầu từ tháng 2/1937 và
tiếp tục cho đến tháng 4/1939. Oliver Twist đã được chuyển thể thành nhiều
phim điện ảnh, phim truyền hình và các vở nhạc kịch. Bộ phim Oliver năm 1968 đã
đoạt giải Oscar.
13.
Micawber,
nhân vật trong tiểu thuyết David Copperfield của Charles Dickens
.
14.
D.H.
Lawrence ( 1885 - 1930 ), tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà viết kịch , viết luận,
nhà phê bình văn chương, tên thật là David Herbert Lawrence. Những tác phẩm nối
tiếp nhau của ông đã phản ánh mặt trái vô nhân tính của thời kỳ công nghiệp hoá
hiện đại. Trong những năm đầu đời, ông đã làm thơ, rồi viết vài truyện ngắn, bản
thảo một cuốn tiểu thuyết có tên là Laetitia, sau này trở thành quyển Chim công
trắng ( The White Peacock, 1911 ). Nhiều tác phẩm của ông đã gây được tiếng
vang ( Lady Chatterley’ s Lover, Người tình của Phu nhan Chatterley, 1928 ).
15.
T.S.
Eliot. Ở đây, tác giả muốn chế nhạo những người bán sách thiếu hiểu biết đã nhầm
lẫn tác phẩm Decline And Fall of the Roman Empire của sử gia Edward Gibbon,
tương tự The Mill on the Floss được viết bởi nhà văn George Eliot.
16. Girl’s Own Paper, là một tạp chí ra hàng tuần tại Anh quốc dành cho nữ giới, tồn tại từ năm 1880 đến năm 1956.