Anh Phúc và gia đình qua Mỹ năm 1990 thuộc
diện bảo lãnh. Anh và gia đình, vợ và ba con, được tái định cư ở tiểu bang New Mexico, tiểu bang thứ 49,
tương đối đất mới, người thưa, rất tốt cho những người Mỹ trẻ đến đó để lâp
nghiệp. Nhưng với anh Phúc lúc đó đã ngoài năm mươi. Ý nghĩ đầu tiên của anh là
tạm sống ở đây một thời gian sau khi có thẻ thường trú, rồi sẽ tìm cách qua
Cali sống có bạn bè và cộng đồng người Việt.
Anh đâu có ngờ, chỉ trong một thoáng mà
tiểu bang New Mexico cầm chân gia đình ở đấy gần 3 năm. Sau 18 tháng đầu, gia
đình anh bị cắt welfare. Vợ anh mắc bịnh ung thư. Rốt cuộc anh và các con đã phải
bỏ học tiếng Anh và chuyên môn, bung ra làm assembler để có bảo hiểm y tế cho
gia đình. Nhưng rồi chị cũng qua đời, anh mất hết ý nghĩa của cuộc sống. Là một
giáo sư dạy Triết ở trong nước, bây giờ nhìn lại thân phận tị nạn bèo bọt của
mình và phần số hẩm hiu của vợ, anh thấy cuộc đời này thật ngắn ngủi và vô định
Cuối
năm 1994, bốn cha con, cùng lọ tro cốt của chị, chạy qua Cali kiếm sống và tìm
sự giúp đỡ ít ra là tinh thần của cộng đồng Người Việt và bạn bè, những người bạn
đã từng khắng khít với anh trong thời chiến, trong lao tù cải tạo. Nhưng sự đời
không diễn ra như anh tưởng. Sau gần 20 năm xa cách, biết bao nước chảy qua cầu,
bạn bè thân thích trước 1975, đôi khi gặp nhau trên đất lạ xứ người lại không
nhìn ra nhau. May mà anh còn có nhóm học trò cũ trước 75, chẳng những nhìn ra
anh, họ còn nhớ công ơn dạy dỗ của anh; có một số đến thăm anh và chía sẻ giúp
đỡ cha con anh tìm job hay đăng ký bảo hiểm sức khỏe, tem phiếu thực phẩm trong
khi chờ đợi có job. Điều này làm cho anh thấy được niềm an ủi. Một số hoc trò của
anh, còn nhớ anh đã từng dạy dạy Piano, và anh đã đào tạo một số nhac sỹ Piano
thành danh sau này. Họ đến tìm anh và yêu cầu anh day piano cho các con của họ.
Anh được trả lương hậu hỉ và bằng cash. Nhờ thế anh có những năm tháng sống thoải
mái với nghề gia sư về Piano, nhất là sau năm 2002, khi đó anh đã đuọc 65 tuổi,
anh đã có quốc tich Mỹ anh lãnh tiền già và được cắp thẻ Medicaid.
Dòng đời của anh không vì thế mà yên bình trôi chảy mãi. Đến năm 1999, người
con trai lớn của anh trong cơn khủng hoảng với vợ, anh chàng bỏ gia đinh vào
chùa tu. Người con trai thứ của anh đi lấy vợ. Gia đình của nó là gia đình hạt
nhân kiểu Mỹ. Người con gái út có chồng là kỹ sư điện toán, cũng là học trò cũ
của anh. Họ đã có có hai mặt con. Thỉnh thoảng hai vợ chồng người con gái út đến
thăm anh. Đó là niềm an ủi còn sót lại trong cuộc sống lưu vong của anh.
Sống trong tuổi già với bao nhiêu kỷ niệm đau thương chồng chất, anh hứng
chịu tất cả bịnh chứng của tuổi già: cao
áp huyết, tiểu đường, phì đại tuyến tiền liệt... và cuối cùng anh bị stroke, liệt
nửa người bên trái, vào năm 2008 khi tuổi đời vừa đúng 70. Thế giới của anh bây
giờ chỉ còn lại chiếc xe lăn, laptop, IPhone.
Phòng anh ở theo chế độ housing, chinh phủ chi trả 90% tiền thuê
phòng. Anh từ bỏ nghề gia sư về piano.
Anh rơi vào tình trạng trầm cảm, anh tìm đến các bác sĩ tâm thần để tư vấn và
điều trị những hội chứng anxiety, panic disorders. Nguyên là giáo sư triết và
tâm lý học anh biết tự kiềm chế mình trong những cơn khủng hoảng...
Ở tuổi 75, anh cam chịu sống trong Viện Dưỡng Lão dành cho người già tàn phế.
Anh ở chung phòng với một người Mỹ gốc Mễ. Ông này có triệu chứng liệt vì
stroke và thất ngữ, không nói được. Tuy trong phòng có 2 người nhiều lúc anh cảm
thấy mình sống chỉ có một mình trong một thế giới câm nín. Từ phòng anh, nhìn
xuống phía dưới lầu là một con sông rộng trải dài đến tận ngút ngàn. Bên kia trời
là những đỉnh cao của dãy Rocky Mountains. Những khi chiều xuống, nhìn khói
sóng trên sông anh nhớ nhà chi lạ, anh ngâm ngùi nhớ câu cổ thi Trung Quốc: "Nhật mộ hương quan hà xứ thị/Yên ba
giang thượng sử nhân sầu..."(*)
Bây giờ anh bắt đầu sống với quá khứ, với những hoài niệm buồn vui lẫn lộn.
Với cái LapTop qua Internet, email. facebook, anh tìm lại bạn bè thất lạc trong
thời chiến tranh khốc liệt, thời hậu chiến đầy gian khổ. Anh đươc an ủi rất nhiều
khi nhân đươc từ Facebook các bạn bè nhắc lại câu chuyện và hình ảnh thân yêu
xưa cũ. Anh nhớ lại những lần được vợ thăm nuôi trong lao tù cải tạo, những lúc
đó anh nhìn lọ tro cốt của chị anh rưng rưng nước mắt.
Anh vốn dĩ là Phật tử, măc đầu anh không qui y, không pháp danh, không ăn
chay, toàn ăn mặn. Anh thường đọc kinh Cứu Khổ vào buổi sáng kể từ khi anh trở
về từ lao tù hoc tập cải tạo. Anh nhớ lại tại một buổi thuyết trình tại Đai Học
Văn Khoa Saigòn vào khoảng năm 1962, một giáo sư người Pháp, Michel Piclin, cho
rằng đạo Phật là một triết hoc dạy ta sống với lòng vị tha. Đạo phật để sống chứ
không phải để cầu, đạo Phật hướng dẫn chúng ta đi chứ không hứa đưa chúng ta tới
đích. Khác với tôn giáo khác, đạo Phật không thừa nhận có Thượng Đế hay một đấng
Siêu Quyền Lực như đấng Allah, có toàn năng chi phối đời sống của con người
cũng như ban phát khen thưởng trừng phạt con người. GS Piclin thuyết giản:
Không có Đức Phật tự sinh. Tất cả phải thông qua một quá trình tu tập rèn luyện
đầy nghị lực với tất cả Bi-Trí-Dũng. Đức phật đã từng nói:"Ta là Phật đã
thành-Chúng sinh là Phật sắp thành". Và GS. Michel Piclin đi đến kết luận
gây sốc mọi kháng thính giả: "Đạo Phật Vô thần". Dù sao buổi thuyết
trinh hôm ấy của GS. Michel Piclin đã để lại anh nhiều ấn tượng sâu sắc về Phật
học.
Trung tuần tháng 5 năm 2020, giữa
mùa đại dich Covid-19, anh nhận được email của người em gái tên Hạnh từ Viêt
Nam. Người em gái báo cho anh biết, các con của chị ấy đã nên gia thất, và ra ở
riêng. Bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng già ở trong một cái nhà khá rộng. Cô em
gái của anh rất mong ngày hồi hương của anh. Nếu cần cô áy sẽ thuê một người
chuyên chăm sóc người già tại tư gia để chăm sóc cho anh. Vợ chồng cô ấy chịu
chi phí tất cho cuộc sống của anh tại quê nhà không có gì là gánh nặng tài
chánh cho cho họ cả. Và cô ấy bảo anh tranh thủ trở về càng sớm càng tốt.
Sự thật, đầu năm 2020, anh có
nói chuyện với vợ chồng người con gái út của anh là anh muốn hồi hương. Người
con gái của anh cũng cho anh hay viêc hồi hương của anh từ Viện Dưỡng Lão về Viêt Nam trong thời đại dịch
Covid-19 phải qua nhiều thủ tục khá rắc rối. Nhưng vợ chồng con sẽ cố gắng, trước
hết là phải hỏi ý kiến của Cô Hạnh bên nhà. Nếu cô đồng ý tự nguyện chăm sóc ba
ở tuổi già, sau đó con sẽ lo tiến hành thủ tục cho ba hồi hương. Hy vọng khi đại dịch Covid-19 lắng
xuống, ba có thể trở về nhà. Nói tới đây mặt người con gái út ràn rụa nước mắt.
Anh nhìn lọ tro cốt của chị, anh nói, viêc đầu tiên khi ba về bên nhà là ba phải
lo xây mộ phần cho mẹ con, sau đó khi nào ba chết các con nên nhớ đăt mộ phần của
ba bên cạnh mộ phần mẹ con...
Cuối tháng 7 vừa rồi, người con
trai cả của anh, đến thăm anh tại Viện Dưỡng Lão. Khi găp anh người con trai
trong bộ áo cà sa màu nâu sậm, chấp tay vái chào anh. Anh thật ngỡ ngàng khi gặp
lại người con trai của mình sau hai mươi năm xa cách. Anh kéo con anh cúi xuống
gần anh hơn. Anh không tin mình đang ôm vào lòng một vị chân tu. Người con ngồi
bên cạnh chiếc xe lăn của cha, anh cầm tay cha, tỏ bày, con đến hầu thăm Ba khi
được biết ba sẽ hồi hương trong nay mai. Con chúc ba bình an
và được an lac nơi quê nhà. Các con ở Mỹ sẽ không bao giờ dám quên đươc công ơn
sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Anh nhìn thẳng vào mắt con, anh bảo, ba thành
khẩn cầu chúc những buổi lễ con ban sẽ có nhiều tín chúng đến tham dự lắng nghe
con. Ba cũng không thể nào quên được nước Mỹ đã từng nuôi dưỡng gia đinh mình
và bây giờ nước Mỹ vẫn tiếp tục cưu mang các con. Ba mong rằng các con hãy
thương yêu và phụng sự nước Mỹ như tổ quốc của các con...
Ngoài kia nắng chiều vừa xuống. Trước khi
nói lời từ giã với cha mình, vị chân tu đưa bằng hai tay cho cha chuỗi tràng hạt,
và vị chân tu nghẹn ngào: thưa ba giử lấy chuỗi tràng hạt này, để khi nào ba có
băn khoăn điều gì, một cơ duyên gì, xin ba cứ lần tràng hạt tinh thần ba có đủ
tĩnh thức, và tâm hồn ba sẽ bình an. Anh đưa tay nhận chuỗi tràng hạt, cả hai
cha con nhìn nhau trong suốt chiều sâu của tâm thức...
Từ chiếc xe lăn, anh nhìn theo bóng con
khuất dần sau những vạt nắng, tay anh vô tình lần tràng hạt, anh băn khoăn sự
tu tập của con sẽ đi tới đâu? Anh nghiêng tâm nghe lòng mình rung động trong nắng
hoàng hôn.
Đào Như
(*) Trích từ bai thơ Hoang Hạc Lâu của
Thôi Hiệu - Nhà thơ Trung Quốc đời Đường
Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buòn lòng ai...Tản Đà dịch