Long Kiểng dính với ba địa
danh là chợ Long Kiểng, bến đò Long Kiểng và cầu Long Kiểng. Ba địa danh này
liên quan tới nhau nhưng không cùng một chỗ. Chợ Long Kiểng ở quận 4, trên đường
Tôn Thất Thuyết, kế chợ có một bến đò để qua sông về Nhà Bè, nhưng bến đò bên
quận 4 thì mang tên khác, bên kia sông về phía Nhà Bè mới gọi là bến đò Long Kiểng,
tới bến đò Long Kiểng rồi thì trước mặt là một con lộ lớn, ngày xưa là lộ đất đỏ
không có tên, đầu đường là bến xe thổ mộ, leo lên thổ mộ chạy thêm khoảng năm
ba cây số thì gặp cầu Long Kiểng.
Kể dông dài như vậy, để biết
là địa danh Long Kiểng dùng để gọi một khu vực khá rộng, chiều dọc thì có thể
tính từ chợ Long Kiểng bên kia sông qua tới cầu Long Kiểng còn chiều ngang, có
thể coi như khu vực nối từ cầu Rạch Ông, tới cầu Tân Thuận bằng đường Trần Xuân
Soạn. Trong lịch sử chống Pháp, ghi nhận nơi đây với các khu làng xã Tân Quy,
Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm là cái nôi của một lực lượng quân sự là nghĩa quân
Bình Xuyên, mà trong truyện Người Bình Xuyên của Nguyên Hùng viết mở đầu: “Con
đường đất đỏ nối liền chợ Long Kiểng với bến đò (cũng mang tên Long Kiểng) phơi
mình dưới nắng mai đẹp như một dải lụa dài màu gạch cua. Hai bên đường nhà cửa
lưa thưa, các cánh đồng xen lẻ bưng rạch xanh um. Đâu đó một con cu đất đậu
trên nhánh bần cất tiếng gáy dõng dạc như khuấy động bầu không khí êm ả của đồng
quê. Thỉnh thoảng một chiếc thổ mộ chạy lốc cốc suốt quãng đường dài.”
Đó là lịch sử. Còn từ năm
1960, thì khu Long Kiểng coi như khu dân cư mới để giãn dân cho trung tâm thành
phố. Đầu thập niên 1970, khu vực xã Tân Quy Đông được khai thác thành một khu
dân cư rộng lớn với hàng ngàn căn nhà được xây đơn giản, mỗi căn nhà ngang 4
mét dài cỡ 10 mét, trong một lô đất rộng gấp ba để cư dân có thể trồng rau,
trái. Từ bến đò Long Kiểng, đi trên con lộ đất đỏ vào khoảng gần vài cây số,
bên phải là nghĩa trang, nơi này có mộ một người phụ nữ Công giáo mất cả trăm
năm mà không phân hủy, nên người dân tôn kính gọi là đất bà thánh Anna Sĩ. Còn
về bên trái, có đường dẫn vào khu dân cư, chúng ta gặp ngay chợ Tân Quy Đông, nằm
trong một khu vực được quy hoạch chung với bưu điện, ngân hàng và sâu vào trong
nữa là các trường tiểu học và một trường trung học đệ nhị cấp của huyện Nhà Bè
là trường Lê Thánh Tôn.
Cho tới năm 1978, ở ngã ba
Trần Xuân Soạn vẫn còn bến xe Thổ Mộ, hình ảnh người xà ích ngồi bên càng xe
hút thuốc rê chờ khách và con ngựa bị che mắt lắc lư cái đuôi xua đuổi ruồi muỗi,
lâu lâu đầu lắc lư và dậm các vó xuống nền đất in trong đầu tôi thật nhiều xúc
cảm, gắn liền với kỷ niệm, bởi vì sau nhiều năm tháng ở giữa trung tâm thành phố,
khi dọn nhà qua Long Kiểng, thấy giống như mình về quê... xa lắm.
Hơn 20 năm ở Mỹ, tôi nhiều lần
về thăm lại Việt Nam và lần nào cũng ở Long Kiểng. Bởi vì thứ nhất đây là vùng
đất tôi cư trú lâu dài trước khi rời Việt Nam, và lý do thứ hai quan trọng hơn,
chính vì người chị ruột đang ở Long Kiểng, người đã luôn dành cho đứa em những
tình cảm ruột thịt ấm áp. Tôi luôn tự hào về chị, tự hào về những hành động, cử
chỉ, sự quan tâm của một người chị dành cho đứa em mà tôi biết chẳng phải ai
cũng có được, tự hào hơn nữa về cuộc đời của chị, là một tấm gương về đạo đức
và sự kiên trì trong học vấn.
Tôi mồ côi cha từ thơ ấu, sống
với mẹ bằng sự nuôi nấng của các anh các chị. Khi vào Nam, mẹ tôi dắt theo 6 đứa
con mồ côi, nhỏ nhất là tôi vừa lên 4 và anh lớn nhất 19 tuổi, lần lượt từng
người vừa đến tuổi trưởng thành là bước ra đời, kiếm sống và gửi tiền về nuôi mẹ
cùng các em. Những đồng tiền hẹp hòi được mẹ chi tiêu dè sẻn và rất khó khăn.
Chị Bội Cẩn bước vào đời từ năm 16 tuổi khi thi xong bằng Trung học. Chị tham dự
một cuộc tuyển nhân viên của Viện Pasteur, và được huấn luyện hai năm để trở
thành Chuyên viên Phòng thí nghiệm, nhiệm sở đầu tiên là Bệnh viện Long An.
Mỗi ngày trong tuần, bất kể
nắng mưa, sau khi tan sở, chị đón xe đò từ Long An về bến xe Chợ Lớn, sau đó đi
bộ từ bến xe về trường Chu Văn An (khoảng cách gần 5 cây số) để học lớp đêm,
tan lớp, đi bộ cũng khoảng 3 cây số về nhà lúc đó ở cầu chữ Y. Sáng hôm sau,
đón xe buýt vào bến xe Chợ Lớn để xuống Long An làm việc tiếp. Hãy nghĩ cái lộ
trình đi bộ và tinh thần hiếu học đó suốt hai năm để lấy cho được cái bằng Tú
tài toàn phần để hiểu cái ý chí cầu tiến của chị. Giai đoạn đó, chị quen một
giáo sư dạy tại Trung học Tân An, anh Chu Hoài Nhân là cháu nội cụ Nghè Chu Mạnh
Trinh, hai người gặp nhau, tâm đầu ý hợp, gia đình hai bên nhiều nét tương đồng,
cùng là con nhà nho phong và đặc biệt cùng nghèo như nhau. Sau khi lập gia
đình, chị lại kiên trì cho việc học, chị ghi danh vào học Đại học Văn Khoa
trong lúc vẫn tiếp tục làm việc tại bệnh viện. Câu chuyện chị kể lại với niềm
vui là suốt 4 năm đó, năm nào cũng vào thi vấn đáp với cái bụng bầu. Mỗi năm lấy
một chứng chỉ và mỗi năm sanh một cháu bé. Sanh xong cháu thứ tư là chị lấy
xong Cử nhân Văn chương Việt Hán, và chị xin chuyển qua ngành Sư phạm, là một ước
mơ từ thuở bé.
Bước lên bục giảng thành
giáo sư Việt Văn đầu tiên ở trường Trung học Thủ Thừa từ năm 1973, sau đó ròng
rã suốt 40 năm làm một việc duy nhất là dạy học, môn dạy duy nhất là Việt Văn.
Dạy ở nhiều trường, nhưng lâu dài nhất, dài tới hơn 20 năm là tại trường cấp ba
Lê Thánh Tôn huyện Nhà Bè cho tới lúc nghỉ hưu. Có thể nói, các lứa học sinh tốt
nghiệp Trung học Phổ thông ở Nhà Bè suốt từ 1980 cho tới 2000 ít có cô cậu nào
không phải là học trò của chị. Cuộc đời của chị là dạy học, cuộc sống của chị
là mẫu mực và tâm tư suy nghĩ của chị là giáo dục. Hành trình để lấy cho được bằng
Cử nhân để chuyển qua ngành Giáo dục của chị là một nỗ lực gần như phi thường bắt
nguồn từ một khao khát nối chí tiền nhân của cả hai bên, bên cha ruột và bên
ông nội của chồng, thêm vào đó là thiên khiếu riêng về văn chương chữ nghĩa.
Năm 1985, gia đình tôi cũng
rời quận 5, dọn về khu Long Kiểng. Tôi ở ấp Tân Quy Tây nằm cạnh đường Trần
Xuân Soạn, còn chị Bội Cẩn ở xã Tân Quy Đông sâu vào bên trong. Những tháng
ngày thiếu thốn cơ cực đó, hình ảnh chị chạy chiếc xe đạp mini cũ mèm, vài ba bữa
lại ghé qua nhà, hỏi thăm các em các cháu, rồi ấn vào tay tôi tờ giấy tiền nho
nhỏ, rút ra từ đồng lương hẩm hiu nhà giáo để em mua thêm thức ăn cho các cháu,
mỗi khi nhớ lại không cầm được cảm xúc.
Qua mắt nhìn của chị, tôi chẳng
bao giờ lớn lên. Trong những chuyến về Việt Nam đầu tiên, ở tại nhà chị, chị
lưu ý từ ly cà phê buổi sáng, tới thay đổi món ăn mỗi bữa, áo quần thay đổi và cả mỗi lần lấy xe ra khỏi
nhà là hỏi em đi đâu? Bao giờ về, chị chờ
cơm nhé... Có lần, đang giữa trưa tôi đang ngồi uống cà phê với bạn bè ở gần
ngã tư Bảy Hiền, điện thoại reng, chị hỏi em đang ở đâu, sáng nay chị mua được
con cá diêu hồng ngon lắm làm cá um cần ta mà em thích nè, chị chờ em về ăn cơm
nhé... Tôi phải giải thích chị ơi, em đang ở cách nhà cả mấy tiếng đồng hồ, làm
sao chị chờ được...
Sáng hôm sau, vừa dắt xe ra,
chị đưa chân ra cửa và lại ân cần hỏi... Bao giờ về? Chu Thế Phong là con trai
của chị, đưa tay ra cản mẹ và nói với chị rằng: Cậu về là cậu đi chơi chứ có phải
về đây để ăn và ngủ đâu. Mẹ đã đưa chìa khóa nhà, chìa khóa phòng và xe cho cậu
rồi, thì mẹ phải để cậu thoải mái đi đâu thì đi, chừng nào về thì về, có thế cậu
mới về ở đây với mẹ, mẹ hỏi hoài... chắc cậu trốn luôn quá... Tuyệt vời quá Thế
Phong, cháu của tôi hiểu cậu đến xương tủy luôn.
Long Kiểng theo chiều ngang
là đường Trần Xuân Soạn thì nối từ cầu Rạch Ông tới cầu Tân Thuận, phía bên
trái là rạch Bến Nghé, còn bên phải thì ngày xưa là những căn nhà bán thành thị
bán thôn quê, nhưng nay đã là những tòa nhà bề thế, các khu chung cư cao tầng.
Ngã ba Tân Quy nay thành ngã ba Trần Xuân Soạn và Lê Văn Lương sầm uất sang trọng.
Đi tới nữa, tìm con hẻm nhỏ ngày xưa mà tôi từng ghé chơi nhiều lần là nhà của
nhạc sĩ Châu Kỳ, người nhạc sĩ tài hoa người Huế, dáng người đậm thấp, nói chuyện
vui vẻ khi khoe rằng ông đang ở căn nhà không số và con phố không tên. Nhạc sĩ
Châu Kỳ là tác giả nhiều ca khúc nổi tiếng như Thương Về Miền Trung, Sao Chưa
Thấy Hồi Âm, Con Đường Xưa Em Đi. Nhớ lắm người nhạc sĩ tài hoa đi trên chiếc
xe đạp cũ cầm tay cây đàn ghi-ta lớp vẹc-ni trầy tróc, mái tóc bạc phơ mà đôi mắt
lấp lánh tia cười khi ôm đàn và hát Giọt Lệ Đài Trang... rồi kể về một cô gái
con nhà quyền quý mà có một kết thúc thật buồn. Còn nhớ có lần, trong bàn tròn
uống rượu đế có Huỳnh Dạ Thảo, Đoàn văn Khánh, khi nghe Châu Kỳ hát vài bài,
bài nào cũng buồn, tôi bạo dạn đề nghị xin cho nghe một bản nhạc tình vui được
không? Nhạc sĩ Châu Kỳ nhìn tôi cười, tình vui làm sao thành ký ức để viết được,
nói vậy nhưng ông cũng ôm đàn lên... “Chỉ có đôi ta không bao giờ ly biệt, chỉ
có đôi ta tha thiết mộng ban đầu. Đừng khóc cho tương lai mai thuyền ngược về
đâu. Với một tiếng tin yêu nhau, mối tình đẹp ngàn sau...” Tuyệt vời cho lời hứa hẹn lứa đôi trong ca
khúc Đừng Nói Xa Nhau của Châu Kỳ. Đây có lẽ một ca khúc nhạc tình có hậu, tình
vui rất hiếm hoi của ca nhạc Việt Nam.
Châu Kỳ là một tên tuổi lớn
của tân nhạc, ông để lại cho đời trên 200 ca khúc, trong số đó, rất nhiều bài nổi
tiếng ai cũng thuộc mà ít người biết tên tác giả như Đừng Nói Xa Nhau, Tôi Chưa
Có Mùa Xuân, Sao Chưa Thấy Hồi Âm... Trong một bài viết trên trang web Yêu Nhạc
Vàng (mà tôi không tìm thấy tên tác giả) cũng đã viết về nhạc sĩ Châu Kỳ như thế
này:
- Từ một ngôi nhà khang
trang trước 1975 phải bán đi để trả nợ cho sự sống còn để rồi còn một mái nhà dột
nát ở xã Tân Quy, huyện Nhà Bè hiện nay, từ một chiếc “vespa” cũ kỹ trước 1975,
nay lại còn một chiếc xe đạp và từ năm 1975 cho đến nay tính ra Châu Kỳ đã có đến
chiếc xe đạp thứ 16, vì bị mất cắp, vì bị hư hỏng không còn xài được nữa và bạn
bè - cũng rách nát như anh - thương tình giúp đỡ cùng với món tiền ít oi mà các
trung tâm băng nhạc ở hải ngoại gửi về để cho anh mua chiếc xe đạp khác, mua rồi
mất, mất rồi mua, nay đã là chiếc xe đạp thứ 16 của anh.
Người nhạc sĩ tuổi bát tuần,
thân thể giờ đây tuy có ốm yếu, gầy mòn nhưng trong nét nhạc vẫn còn những nét
tinh anh vì tuổi Quý Hợi tuy bề ngoài hiền hậu, thư sinh, ôn nhu nhưng bên
trong chứa đầy nghị lực. Mới ngày nào đây, khi những ca khúc đầu tay như
"Trở về", "Tiếng hát dân Chàm" ra đời thế mà nay đã ngót nửa
thế kỷ, "bóng dâu đã xế ngang đầu".
Từ xã Tân Quy, huyện Nhà Bè,
Châu Kỳ nhìn lại khoảng đời đã đi qua mà lòng không khỏi bùi ngùi xúc động, xót
thương cho một số đông bè bạn thân mến đã vĩnh viễn ra đi, một số thì diệu vợi
xa cách, chỉ còn chăng một số ít oi còn ở lại nhưng cũng lâm vào hoàn cảnh khốn
khó, bần bách, đôi mắt nhòa nhạt vì tuổi đời chồng chất.
Khi tôi rời Việt Nam, thì nhạc
sĩ Châu Kỳ cũng dọn về Thủ Đức và từ trần năm 2008, hưởng thọ 85 tuổi. Tác giả
Cố Đô Yêu Dấu đã được gia đình đưa về an táng tại đồi Nam Giao, Huế, như lời ước
nguyện.
Có lẽ phải nhắc đến một di
tích khá lạ. Đó là chùa Ông. Chùa mà lại là chùa Ông, thờ Quan Đế. Hồi xưa, muốn
vào chùa Ông thì từ Trần Xuân Soạn rẽ vào một con hẻm nhỏ, đi vào rất sâu quanh
co qua khỏi khu dân cư, tới đồng ruộng, nghĩa trang rồi tới một bến đò, từ bến
đò này lên đò qua một cù lao giữa bưng biền. Chùa Ông xây dựng trên đó dường
như vào khoảng 1945, trong chùa thờ ông Quan Đế có lẽ chỉ là cái cớ tôn giáo hợp
thức hóa cho những sinh hoạt ngầm. Chùa xây biệt lập như vậy giữa vùng kháng
chiến này thực ra ngày xưa là một cứ điểm, nơi hội họp mật của các thủ lĩnh
giang hồ. Ngoài con đường nhỏ nói trên, người ta chỉ còn có thể đến chùa Ông bằng
cách khác đó là đi bằng thuyền, mà tôi cho rằng đi bằng thuyền mới là chính. Di
chuyển trên chiếc thuyền nhỏ giữa các vòm lá dừa nước um tùm làm tưởng tượng
như đi vào vùng các hảo hán Lương Sơn Bạc ngày xưa. Thời gian sống ở Long Kiểng,
tôi nhiều lần được thanh niên trong xóm chèo ghe tới sau nhà, đón lên rồi lênh
đênh trong lau lách để đến chùa trong những đêm trăng, rất tuyệt vời, lãng mạn
và có chất thần bí nữa.
Bởi vị trí chùa gần như biệt
lập có giá trị cho những sinh hoạt bí mật, để khi có động, mọi người tan hàng về
các ngả khác nhau... Sau này, những người giang hồ và kháng chiến đó tàn lụi
đi, nhưng con cháu vẫn thường xuyên vào đó tế lễ tạo thành một lễ hội hàng năm.
Lễ hội này có những bài tế đồng nam, đồng nữ rất lạ mắt. Bây giờ, các ao hồ,
bưng biền được lấp đi xây nhà cửa, đường sá và một con đường mở ra sau lưng
chùa Ông. Người đi chùa Ông bây giờ thoải mái lái xe gắn máy, xe hơi vào thẳng
trong chùa. Tôi đã về và đã ghé đến nhưng thực sự cảm giác hụt hẫng thật nhiều.
Đi tới nữa thì gặp Cư xá
Ngân Hàng. Đây là một khu cư xá rất đẹp, các đường ngang dọc thẳng tắp với những
căn nhà giống nhau, sạch sẽ và thanh tĩnh. Nơi này ngày xưa của Ngân hàng Việt
Nam Thương Tín xây cất dành bán cho nhân viên thuộc quyền. Bây giờ vẫn gọi như
vậy, và đặc biệt là vẫn giữ được cái thanh tĩnh, sạch đẹp như ngày xưa.
Đi thêm về phía Tân Thuận
thì tới một cái cầu nhỏ bằng với mặt đường nên có khi đi qua mà không biết là
đi qua cầu, nhưng cây cầu này lại rất nổi tiếng vào khoảng thập niên 1960, đó
là cầu Hàng.
Các xã Tân Quy Tây, Tân Quy
Đông, Tân Hưng... thuộc huyện Nhà Bè ngày xưa, đã được sáp nhập và thành quận 7
phát triển hết sức nhanh chóng từ đường sá, cầu cống, tới dân cư để trở thành một
khu vực quan trọng về kinh tế, thương mại. Con đường Trần Xuân Soạn ngày xưa là
đường xương sống của khu Long Kiểng nay cũng phát triển, sầm uất hơn xưa, nhưng
không thể so sánh được với những con đường mới mở sau này.
Khi tôi chạy xe buổi tối từ
Saigon, băng qua cầu Khánh Hội, rồi cầu Kênh Tẻ. Vừa qua cầu là gặp hàng loạt
cao ốc cả ba bốn chục tầng, rồi trường Đại học Tôn Đức Thắng, siêu thị Lotte, tới
con đường rẽ trái vào một đại lộ rực rỡ ánh đèn, nhà hàng, tiệm ăn, cửa hàng thời
trang... Thật không thể tưởng tượng được khu này ba mươi năm trước vẫn còn là
những cánh đồng ngập mặn, những con lạch quanh co với hàng dừa nước mịt mùng.
Dẫu là con lộ đất đỏ ngày
xưa hay đại lộ Lê Văn Lương bây giờ, dẫu là khu ruộng ngập mặn hay là các con lộ
Nguyễn Thị Thập, Lâm Văn Bền bây giờ, dẫu tên Long Kiểng, Tân Quy hay là Tân Kiểng
bây giờ, nhưng từ xa nhớ về, tôi vẫn còn hoài cảm thời lênh đênh trên chiếc ghe
nhỏ, chèo trong đêm trăng sáng để đi lễ năm nào, nó thanh bình, thơ mộng, mà
còn có vẻ như huyền hoặc nữa.