1. Thơ là biểu hiện và kết nối cảm xúc
Trước
hết, về cơ bản, thơ ca cho phép các cá thể con người nói lên những cảm xúc, suy nghĩ và trải nghiệm sâu sắc nhất
của họ. Nó có thể nắm bắt được các sắc thái cảm xúc của con người theo những
cách mà các loại hình giao tiếp khác không thể làm được. Vay mượn câu nói của
Milan Kundera, “có những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được”, tôi có thể nói “có
những điều chỉ thơ ca mới nói được.”
Chúng ta đang sống
trong một thế giới mà con người ngày càng xa cách, tách ly nhau; thơ ca là con
đường cứu chuộc cuối cùng cho vấn nạn đó. Trong lúc sự hư ngụy, giả trá được
tâng xưng lên làm chân lý, thì thơ ca vẫn lặng lẽ nói lên Sự Thật. Sự Thật của
thơ ca là hy vọng cuối cùng cho con người tìm lại được sợi dây thắt buộc mình lại
với nhau sau những phân liệt tranh chấp và hận thù.
Thơ ca mở rộng ngôn ngữ, cho phép nhà thơ giao cảm theo cách
mà các hình thức khác – một cuộc trò chuyện thông thường, một câu chuyện kể bằng
văn xuôi, v.v. – không mang lại được. Chúng ta có thể sử dụng thi ảnh và cảm
xúc trong thơ để đạt đến mức độ giao cảm sâu sắc hơn, ngay cả khi thơ không chứa
đựng những mật ngôn ẩn giấu, những ý nghĩa đa tầng.
Nhiều nhà thơ đương đại
sử dụng tác phẩm của mình để nói
lên các vấn đề công bằng xã hội, phân
biệt giới tính, xu hướng tình dục, chủ đề chính trị và phê phán văn hóa. Thơ có thể nâng cao nhận thức, kích thích tư
duy và truyền cảm hứng hành động cho những vấn đề quan trọng thuộc phạm vi
chính trị-xã hội.
Thơ với tư cách
là một loại hình nghệ thuật tiếp tục mang lại niềm cảm khoái thẩm mỹ. Việc sử dụng
ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh và âm thanh có thể tạo ra vẻ đẹp và gợi lên cảm
giác ngạc nhiên thích thú về nghệ thuật ngôn từ.
Thơ giúp bảo tồn di sản văn hóa bằng cách truyền lại những truyền thống, câu chuyện và giá trị qua nhiều thế hệ. Đồng thời, nó cũng cho phép đổi mới văn hóa, phản ánh bản sắc và trải nghiệm đang phát triển của con người trong một thế giới toàn cầu hóa.
2. Làm thơ là khám phá và bông đùa với ngôn ngữ
Thơ tự thân là một trò chơi ngôn ngữ, nó luôn tìm cách vượt qua những đường biên
ngôn ngữ đời thường để khám phá những khả năng mới mẻ
của ngôn ngữ. Thử nghiệm ngôn ngữ là phong nhiêu hóa ngôn ngữ và mở rộng
sự hiểu biết cũng như cách sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ phải là một sinh ngữ nếu
muốn tồn tại, nó luôn luôn biến đổi theo thời gian qua các thời đại, bằng không
nó sẽ là một tử ngữ.
Thơ là một lối
viết đặc biệt, khác rất nhiều so với các hình thức viết khác. Tuy nhiên, không
có con đường đúng đắn duy nhất nào để trở thành một nhà thơ. Trong bối cảnh văn
hóa Việt Nam từ thời Trung đại, nhà thơ thường được xem trọng, vì giới sĩ phu
đào tạo trong môi trường Khổng-Mạnh phần nhiều chỉ làm thơ. Nhưng bước sang thời
cận và hiện đại, nhà thơ Việt Nam đã “thoát xác”, không còn mang nặng tâm thức
“văn dĩ tải đạo” nữa mà ngày càng giống các đồng nghiệp Tây phương của mình.
Thơ
đương đại, Việt Nam nói riêng hay thế giới nói chung, là một loại hình nghệ thuật
cho phép người viết sáng tạo mà không phập phồng lo sợ phải làm thế nào cho hoàn
hảo, nhà thơ không cần lo lắng, phân vân về ý nghĩa. Một trong những tính cách
đặc thù của thơ là cho phép người viết bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, ý tưởng, quan
điểm của mình bằng một đường lối trừu tượng, cách
điệu hóa tối đa, nếu cần, và không tuân theo các quy tắc viết “truyền thống”. Một
nhà thơ, nếu hắn làm đúng công việc của mình, sẽ khiến người đọc phải cố gắng
tìm ra chính xác ý nghĩa, mục đích hoặc cảm xúc được truyền tải là gì. Đây là một
trò chơi, trò chơi đoán xem cái gì nằm trong trí óc người làm thơ khiến hắn viết
như thế, một trò chơi thú vị.
Khi làm thơ, cũng như hầu hết các nhà thơ,
tôi bị cuốn hút vào một khoảnh khắc nóng bỏng với một tứ thơ nào đó. Cái gì
thôi thúc tôi viết bài thơ, tôi không thể suy nghĩ rõ ràng, nhưng tôi cần thể
hiện dòng ý thức của mình, càng nhanh càng tốt, và chính những điều này khiến bài
thơ cuối cùng trở nên thú vị. Thơ Siêu thực, với “lối viết tự động” tuôn trào từ
tiềm thức, vô thức, hay giấc mơ, đã đẩy thơ ca đến một biên vực mới lạ, đầy hào
hứng.
Thơ là một hình thức cho phép người viết
bày tỏ sự đau khổ, nỗi sợ hãi và lo lắng của mình mà không cần phải chuẩn xác,
thậm chí không mạch lạc ngay lần viết thử đầu tiên. Thơ cho phép người viết thể
hiện mọi điều nhỏ nhặt trong tâm trí mình trên giấy (hoặc màn hình máy tính),
theo một cách tiếp cận đơn giản. Lúc đó, mối quan tâm duy nhất của nhà thơ là
hiểu được suy nghĩ và xử lý cảm xúc của mình.
Sau khi làm xong một bài thơ, tôi thường có
thói quen quên nó và đi làm chuyện khác, như ra ngoài đi bộ hoặc hẹn bạn bè đi quán
uống cà phê. Sau vài ngày, đôi khi cả tháng, tôi xem lại bài thơ đó với một góc
nhìn mới mẻ. Giờ đây, tôi có thể chỉnh
sửa cho trau chuốt bài thơ, xóa bỏ sai sót, những sai sót tôi có thể mắc phải
trong bản phác thảo đầu tiên lúc tôi viết nó trong cảm xúc nóng hổi.
Chỉnh sửa và biên tập xong, nhà thơ vẫn có
thể giữ được giọng điệu nguyên thủy và duy trì đúng ý nghĩa của nó. Cảm xúc nằm
trên giấy, nhưng bây giờ nhà thơ phải trau chuốt lại một số từ hoặc cụm từ nhất
định để cảm xúc thực sự đến với người đọc.
Vẻ đẹp của thơ nằm ở chỗ hầu hết được sáng
tác trong cơn đồng thiếp, ngẫu hứng, từ một phân cảnh đời sống buồn bã hoặc một
nhận thức bất chợt tình cờ dẫn đến sự suy ngẫm, thậm chí một cơn phẫn nộ, giận
dữ, một niềm vui sướng hạnh phúc dạt dào. Viết
những câu chữ mạch lạc, như trong một bài nghị luận, đòi hỏi phải suy nghĩ và cẩn
trọng nhiều hơn. Nhưng với thơ, mọi quy tắc ngữ pháp gần như bị bỏ qua, không
có đường biên, không có giới hạn cho sự phá cách. Trong thơ, sẽ không hề chi nếu
người đọc tác phẩm của bạn không hiểu rõ ý nghĩa bạn đang cố gắng truyền tải là
gì. Thơ là một hình thức viết mà người đọc có thể chấp nhận việc rút ra kết luận
của riêng mình và diễn giải tác phẩm theo cách riêng. Ở chừng mực nào đó, người
đọc thơ tiếp nối sự sáng tạo từ người làm thơ, thậm chí phủ lấp người làm thơ.
Nói vậy bởi tôi đang nghĩ đến thơ của thi
sĩ Nguyễn-hòa-Trước.
Thơ Nguyễn-hòa-Trước được đặc trưng bởi sự
tập trung vào tính sáng tạo của ngôn ngữ, sự giải cấu trúc của cú pháp và ngữ
pháp thông thường, đồng thời khám phá những hạn chế và khả năng cố hữu của
chính ngôn ngữ.
Thơ ông thường sử dụng cú pháp rời rạc. Cấu
trúc thơ phân mảnh, thách thức các hình thức biểu đạt tuyến tính và tự sự thông
thường. Sự phân mảnh phản ánh sự hoài nghi đối với ý tưởng về một ý nghĩa mạch
lạc, đồng thời nhấn mạnh quá trình đọc thơ như một tương tác tích cực với ngôn
ngữ. Người đọc thơ cùng lúc sáng tạo với người làm thơ. Thơ có thể gãy đoạn,
không dễ cảm nhận tức thời, không đi thẳng từ trái tim người làm thơ sang trái
tim người đọc, nhưng đó là sự gãy đoạn có ý thức khơi gợi những khả thể mỹ học
khác lạ trong một tương quan mở. Chính nhờ vậy, ngôn ngữ trong thơ ông không bị
lệ thuộc vào cái nghĩa, tức là cái tư tưởng tiên nghiệm, để từ đó thơ thoát ra
khỏi thân phận công cụ, không bị trì kéo bởi trọng lượng khôn kham của sứ mệnh,
và trở thành cứu cánh của văn học, của mỹ học.
Là một thử nghiệm ngôn ngữ ở cấp độ vần/nhịp
điệu, từ pháp, cú pháp và ngữ nghĩa, nhà thơ thường sáng tạo những từ mới, sử dụng
cách chơi chữ và vận dụng ngôn ngữ để làm nổi bật những phẩm chất vật chất của
nó. Sự đổi mới ngôn ngữ này nhằm mục đích phá vỡ các thói quen đọc và hiểu.
Bởi
thơ Nguyễn-hòa-Trước xem ngôn ngữ như một đối tượng vật chất, có xu hướng khám
phá tính chất vật thể của nó cũng như cách thức nó định hình nhận thức và trải
nghiệm, nên nhà thơ quan tâm đến kết cấu, cú điệu và hình thức trực quan của
các từ trên mặt dệt bài thơ cũng như bối cảnh văn hóa và xã hội ảnh hưởng đến
việc sử dụng chúng.
Theo lời chính nhà thơ thì “Viết là để 'ngôn ngữ hóa' cảm xúc và tưởng tượng của mình; mà hai thứ này thì cứ thay đổi, biến chuyển tùy lúc. Do đó, chúng bắt buộc 'ngôn từ' phải tự biến hóa liên tục theo.”
3. Miêu thuật trong thơ
Thơ có
cần miêu thuật một câu chuyện nào không? Nếu là thơ vô ngôn, mật ngôn – tôi
đang nghĩ đến nhiều bài thơ của nhà thơ Hoàng Xuân Sơn – thì không hề hiện hữu
một tự sự nào, mà chỉ là tập hợp những từ chẳng liên quan gì đến nhau, cũng chẳng
có ý nghĩa hữu cơ nào. Là người viết, chúng ta có khao khát muốn chia sẻ với độc
giả những câu chuyện đời, từ những chuyện vụn vặt, vớ vẩn chẳng đâu vào đâu cho
đến chuyện nói lên thân phận con người trong dòng chảy cuồng nộ của cái-gọi-là kiếp
nhân sinh.
Nếu là thiên tài như Nguyễn Du, bạn cứ nhẩn
nha viết bài trường ca trên ba nghìn câu lục bát miêu thuật một câu chuyện éo
le, ngang trái nhiều nước mắt. Nhưng thật may mắn cho chúng ta, những kẻ hậu bối
tầm thường, vẫn có nhiều hình thức và loại hình văn bản khác nhau có thể mang lại
trải nghiệm, hoàn cảnh hoặc tình huống cho cuộc sống. Bạn khao khát muốn kể ra sự
thật đầy cảm xúc của câu chuyện hằng ấp ủ trong lòng, bạn chỉ cần ghi lại những
khoảnh khắc nhỏ và biến chúng thành những khoảnh khắc quan trọng. Bạn kể một
câu chuyện mà không cần trau chuốt xây dựng từng chi tiết nhỏ. Đó là nơi thơ
phát huy tác dụng.
Thơ
có thể ngắn hoặc dài, tùy ý bạn. Bài thơ Trái
đất của thi sĩ Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc chỉ vẻn vẹn có sáu từ. Tôi cũng nghe
truyền tụng thi sĩ Nguyễn Đức Sơn có một bài thơ tổng cộng ba từ “Hột thì le!” Nếu đấy là sự thật thì bài
thơ của Sơn Núi có lẽ là bài thơ ngắn nhất lịch sử thơ ca! Tuy rất ngắn, nhưng
cả hai bài thơ của hai thi sĩ (nếu có thể gọi đó là “bài” thơ) đều trọn vẹn
“miêu thuật” một cảnh huống hay một cảm xúc nào đó. Chưa bao giờ người đọc đóng
vai trò quan trọng hơn, bởi người đọc phải tiếp nối, lấp đầy những phần trắng,
phần trống, hở, của bài thơ. Các thể thơ haiku
hay hokku của Nhật Bản cũng có tác dụng
tương tự, nó yêu cầu sự tương tác giữa văn bản thơ và người đọc để bật lên những
điều thú vị nằm bên ngoài thơ.
Điều khiến thơ ca trở thành một loại hình nghệ thuật thiêng liêng là những câu chuyện được kể có rất ít lời. Kỳ thực, kể một câu chuyện lý thú dưới ba trăm từ là một tài năng ít người có được.
4. Hình thức bài thơ
Không
có một hình thức nào được xem là đúng nhất cho một bài thơ. Tuy vậy, hình thức bài
thơ cho phép người đọc có cái nhìn thoáng qua về dòng ý thức của nhà thơ. Mỗi
đoạn thơ đều góp phần truyền tải một ý nghĩa, cảm xúc sâu sắc nào đó. Mỗi khổ
thơ, cách ngắt dòng, dấu chấm hay dấu phẩy, những ký hiệu, thậm chí những đường
nét như tranh vẽ đều được dụng công góp phần tạo nên bức tranh lớn hơn của bài
thơ. Cách thức một bài thơ được định dạng nói lên nhiều điều về giọng điệu hoặc
tâm trạng mà nhà thơ có thể đang cố gắng truyền tải. Nhà thơ có thể truyền tải
một tư duy phân tán bằng cách sử dụng ngắt dòng và nhiều khoảng cách giữa các từ.
Hoặc, nếu muốn bài thơ có vẻ sâu sắc hơn, bạn có thể làm thơ vần và mỗi khổ thơ
có số dòng như nhau.
Không giống như văn xuôi, thơ yêu cầu chúng
ta chú ý đến ngôn ngữ không chỉ từng câu, từng chữ mà còn từng âm tiết, từng âm
thanh. Chính nhịp điệu và âm nhạc của thơ đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe, mở rộng
các giác quan và nhận thức cách chúng ta tiếp nhận ý nghĩa vào tâm trí mình.
Nhạc tính và những khoảng dừng (như những dấu
lặng trong âm nhạc) được chủ ý xây dựng trong dòng ngắt quãng làm chúng ta chậm
lại. Thơ yêu cầu chúng ta không nhảy
về phía trước mà ngừng lại nuốt vào từng con chữ một để thẩm thấu trải nghiệm bàng
bạc trong hồn thơ lai láng. Nó mời gọi sự hiện diện. Nó tiếc rẻ sao đêm chóng
tàn.
Hình thức và nội dung không thể tách rời
trong một bài thơ. Một bài thơ có ý nghĩa chính xác như những gì được biểu hiện
trong hình thức của nó. Hình thức là nội dung và nội dung là hình thức. Điều
này tương tự như tính lưỡng phân giữa tâm trí và thân thể con người.
Hình thức thơ của các nước Tây phương vào mấy
chục năm giữa thế kỷ XX, nhất là thơ Mỹ, lâm vào tình trạng quá độ. Nó biến
thành ký họa. Nhưng chỉ sau hai, ba thập kỷ tung hoành, nó lui vào bóng tối và
ngày nay chỉ hiện hữu như một cước chú trong các giáo trình học đường cho các học
sinh, sinh viên tìm hiểu về lịch sử thơ ca.
Sau khi bài thơ hoàn tất, nó có thể mang bất cứ ý nghĩa gì. Hãy để người đọc tự giải thích. Đó chính là điều khiến thơ trở thành một loại hình viết thú vị và bí ẩn. Thơ là phiên bản giấc mơ của nhà thơ. Qua thơ của mình, nhà thơ có thể tạo ra điều gì đó đẹp đẽ từ bóng tối mà họ có thể đang trải qua. Thơ mang lại cho người viết sự nhẹ nhõm và sự thú vị cho người đọc.
5. Mục đích của thơ là gì?
Đối với
nhiều người, câu hỏi này thoạt đầu nghe có vẻ vớ vẩn, chẳng chút liên quan. Hoặc
bạn thích đọc và làm thơ, hoặc thơ không có mối quan tâm đặc biệt nào đối với bạn,
và trong cả hai trường hợp, lý luận trừu tượng về nó chỉ khiến bạn cảm thấy câu
chuyện trở nên lạc đề. Nhưng ít nhất từ thế kỷ XVI bên Tây phương, các nhà thơ
đã viết những chuyên luận về tầm mức quan trọng của thơ ca. Tập sách Apology for Poetry (Lời
xin lỗi cho thơ ca) của Philip Sidney dựa trên khả năng của thơ trong việc hướng
dẫn độc giả thông qua “niềm vui” và giúp họ đạt được các “thao tác đạo đức”.
Vào đầu thế kỷ XIX, cuốn Defense
of Poetry (Bảo vệ thơ ca) của thi hào Anh Percy Bysshe Shelley
đưa ra lập thuyết dựa trên khả năng rèn luyện trí tưởng tượng của thơ. Theo ông,
thơ ca “đánh thức và mở rộng tâm trí” con người.
Ngày nay, tính trung tâm văn hóa của thơ ca
đã giảm sút đáng kể so với thời cách đây vài thế kỷ. Vào thời của họ, những thi
sĩ như Shelley và Lord Byron có địa vị gần giống như các siêu sao nhạc pop, hay diễn viên điện ảnh thời nay. Nhưng
những niềm vui và bài học từ thơ ca, nếu có, lại không giảm sút chút nào, và việc
thể hiện rõ ràng lợi ích của thơ nhắc nhở chúng ta thơ là gì và chúng ta là ai,
bởi thơ giúp chúng ta bộc lộ chính bản ngã mình.
Thơ hiện hữu trong mọi giai đoạn, mọi tâm
trạng, mọi trải nghiệm của cuộc sống. Osip Mandelstam viết nguệch ngoạc những
bài thơ trong ngục tù Gulag ở Siberia; Thanh Tâm Tuyền vừa lao động khổ dịch tại
những trại tù cải tạo Bắc Việt vừa lẩm nhẩm những câu thơ trác tuyệt nhất của
ông; Trần Mộng Tú vừa nấu cơm tối cho chồng con vừa bật ra trong đầu những vần thơ
nền nã. Thơ đi cùng chúng ta, gặp chúng ta nơi chúng ta đang ở, dẫn chúng ta đến
những bước tiếp theo. Trong cuộc đời tôi, thơ luôn là người bạn đồng hành. Tôi
đã viết những bài thơ trong những khoảnh khắc đen tối nhất và hạnh phúc nhất đời
mình.
Tôi nghĩ chừng đó thôi đã đủ cho thơ ca có một chỗ đứng trang trọng và viên mãn trong tâm hồn chúng ta.
6. Tại sao chúng ta làm thơ?
Khi
chú ý đến ngôn ngữ, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ mang ý nghĩa trong mối liên hệ
với truyền thống, nhận thức, kinh nghiệm. Một từ có nghĩa là một cái gì đó
khác so với các từ khác; cú điệu chỉ được hình thành trong mối quan hệ với các cú
điệu và âm thanh khác. Thông thường, tâm-thân được xem là hai thực thể tách rời,
riêng biệt, nhưng xuyên qua nhận thức của chính chúng ta, tâm-thân chỉ là những
từ nói lên những phần trải nghiệm của chúng ta mà trên thực tế, không thể tách
rời nhau. Tương tự, ý nghĩa của bài thơ xuất phát từ những mối quan hệ được
hình thành giữa thế giới sống, giữa các từ trên trang giấy, mối quan hệ giữa
chúng với nhau và với chính người đọc. Nghề đọc, nghề làm thơ, do đó, gắn liền
với thực tế sống.
Dù đôi khi thấy khó khăn, chúng ta vẫn thấy
được mối liên hệ giữa cái cụ thể và cái thiêng liêng, giữa cái nhỏ nhoi và cái to
lớn, cái gì chúng ta có thể biết và cái gì chúng ta không thể lĩnh hội. Khi chú ý đến những
mối quan hệ này, chúng ta cũng chú ý đến những khoảng trống giữa các sự vật, giữa
các từ, cái không gian im lặng, cái không gian bí ẩn nơi những khả thể có thể xảy
ra.
Không gian của khả năng
này chính là không gian của năng lượng sáng tạo, của tia lửa thiêng lóe sáng lên trong một giây phút bất chợt, phù
du. Và
mặc dù chỉ đọng lại trong tâm tưởng ta không quá một sát-na, nó chỉ hướng cho
ta đến không gian mà nó mời gọi, nơi sự sáng tạo thành hình. Đó là lúc thần trí
tưởng tượng dịch chuyển từ não thùy bên trái sang não thùy bên phải, thâm nhập
vào không gian của sáng tạo. Đây là không gian của giấc mơ, của tiềm thức, của
thần thoại, của thần cảm. Và không gian đó cũng là không gian diễn ra sự thay
đổi. Nó là không gian của tiếng khóc nguyên sơ nhất của chúng ta – nỗi đau
buồn, chấn thương, niềm đau thể xác – tất cả đều là một phần của không gian này
và thường nằm ngoài ngôn ngữ. Đó cũng là không gian của niềm vui lớn nhất, ham
muốn tình dục, tình yêu, và là không gian của chính sự thiêng liêng, của sự
thần bí và kính sợ.
Điều thú vị là những trải nghiệm cao độ
nhất đưa ta ra ngoài ngôn ngữ. Và nghịch lý thay, sự chú ý rất chặt chẽ đến
ngôn ngữ mà thơ ca tạo ra lại đưa chúng ta vào trạng thái phi ngôn ngữ. Nó là khoảng
không trống rỗng giữa các từ, trí tuệ của phi ngôn ngữ, cái mà nhà thơ Nguyễn
Thị Khánh Minh gọi là “phút mong manh
giữa những từ”.
“Hãy nói lên Sự Thật nhưng hãy nói một cách
nghiêng lệch.” Nữ sĩ Emily Dickinson thốt câu nói nổi tiếng đó. Thường thì
chính sự nghiêng lệch của một bài thơ có thể đi đến sự thật một cách chính xác
hơn. Mọi sáng tác đều là một quá trình khám phá, đặc biệt là thơ. Chính hình
thức này đã cho phép chúng ta buông bỏ những cách nói hoặc suy nghĩ có tính
thiên kiến, định sẵn về sự vật và thử nghiệm những hình thức mới, ý nghĩa mới.
Chúng ta học hỏi thông qua quá trình đọc và viết của chính mình.
Một lý do ta
làm thơ là để tuôn ra từ sâu thẳm bản ngã một số suy nghĩ, cảm xúc, hiểu biết,
câu hỏi, thậm chí một giai điệu nào đó mà bạn không biết là có trong bạn hoặc được
ai trên thế giới nói đến hay chưa. (Hãy quay lại câu nói của Milan Kundera.) Các
hình thức viết khác, như báo cáo khoa học, phân tích chính trị, thị trường chứng
khoán, báo chí, phần nhiều cố gắng nắm bắt và thông hiểu những điều đã biết.
Thơ là sự khai phóng cái gì đó trước đây chưa từng được biết đến và đặt nó vào thế
giới hữu hình. Bạn viết để mời gọi điều đó, để biến cái vô minh thành một tập hợp
những điều bất ngờ, và với may mắn, những điều không thể ngờ tới.
Hấp lực của thơ
thu hút những gì sâu sắc và những khả thể của thơ. Thơ cung cấp khả năng mở rộng
khẩu độ và tăng phạm vi tiếp cận. Chúng ta thường sống trong tình trạng chính
mình bị che khuất khỏi những người khác. Những yếu tố cô lập mang tính xã hội:
quy ước, phép lịch sự; và cá nhân: rụt rè, tự sợ hãi hoặc mù quáng, mệt mỏi. Bước
vào một bài thơ là chấp nhận rủi ro, chấp nhận cho bản ngã chui ra khỏi cái vỏ
bọc kín bưng xưa nay nó nằm bất động. Việc làm thơ sẽ loại bỏ mọi biện pháp bảo
vệ, để xem những bước tiếp theo sẽ như thế nào. Thơ là thủ thuật của ngôn ngữ,
trong đó nhà thơ vừa là ảo thuật gia vừa là khán giả. Làm thơ có nghĩa là khám
phá những điều mới mẻ trong cảm xúc và ý tưởng. Thơ thúc đẩy sự biến đổi của hiện
hữu. Trật tự cũ, dù thế nào chăng nữa, một bài thơ sẽ thay đổi nó.
Thay đổi như thế
nào thì chẳng hề có một công thức hay phương trình cho ta tính toán những con số
để xem đáp án sau cùng là gì. Mỗi nhà thơ là một cá thể con người. Tôi không giống
Khế Iêm hay Vương Ngọc Minh, tôi không có sự táo bạo, liều lĩnh, “dám chơi dám
chịu” như hai anh, và chắc chắn phong vị thơ tôi không giống thơ hai anh. Sự thật
là mỗi nhà thơ có một phong khí (mượn chữ của nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc) khác
nhau, không ai giống ai, và đó chính là nét đẹp của thơ ca.
Yêu cầu cốt lõi
của nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng, về hình dạng, tính đặc biệt của trải
nghiệm, được định vị bởi tâm hồn và trải nghiệm sống của người sáng tạo ra nó. Cái
tôi là, tôi sẽ chẳng bao giờ biến đổi được. Và điều tôi luôn tâm niệm trong khi
làm thơ là, “Hay mở cửa sổ rộng hơn vài phân cho thoải mái”.
Những gì chúng
ta khao khát từ nghệ thuật là những điều còn thiếu sót trong cuộc sống mà chúng
ta đang cố sống sao cho ý nghĩa. Luôn luôn thiếu một cái gì đó, và bởi thế việc
sáng tạo nghệ thuật là vô tận. Nghệ thuật là con đường xuyên vũ trụ, không bao
giờ đến đích. Người làm thơ, hơn ai hết vốn biết rõ điều đó, nên hắn chẳng bao
giờ quan tâm đến sự thành công hay thất bại của mình.
Ngoài ra còn có vấn đề kết nối. Bạn không thể dựng một thi ảnh, một ẩn dụ, một câu chuyện, một cụm từ mà không nghiêng sâu hơn một chút vào thế giới được chia sẻ, mà không nhận ra rằng sự cô độc được cho là của bạn ở mọi điểm trong chu vi của nó đều chạm vào một số điểm khác. Sự hiện hữu của con người là một hữu-thể-tại-thế như triết gia Martin Heidegger nhận định. Bạn không thể đọc một bài thơ, nhất là một bài thơ hay, của người khác mà không nhận ra khuôn mặt của chính bạn trong trải nghiệm của họ. Nghệ thuật cho phép chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc, chính xác và trìu mến hơn những gì hiện hữu xung quanh. Và nó mở rộng điều đó, mở rộng chúng ta.
7. Tại sao chúng ta vẫn làm thơ, khi không còn ai đọc thơ nữa?
Hy vọng tôi đã trả lời thỏa đáng phần nào câu hỏi “Tại
sao chúng ta làm thơ” do bạn đưa ra, nhưng hình như bạn chưa chịu buông tha cho
tôi mà còn bồi thêm một câu hỏi khác hóc búa hơn.
Vâng, chúng ta đang sinh sống trong một thời
đại mà mọi thứ di chuyển với tốc độ ánh sáng. Con người ngày càng bị cuốn hút
vào cái “hố đen huyền tẫn” không có lối trở ra, và các thứ không thiết yếu cho
cuộc sống tất bật với nhịp độ chóng mặt đều bị bỏ rơi lại đằng sau, thậm chí bị
ném vào bãi phế thải. Việc đọc sách là một trong những thứ bị vứt bỏ không
thương tiếc đó, nhất là đọc thơ, làm thơ.
Ngày nay con
người chỉ đọc những thông tin trên mạng, mà nội dung những thông tin ấy không
lưu lại trong bộ nhớ của mình quá mươi giây đồng hồ để nhường chỗ cho những
thông tin khác khẩn thiết, nóng bỏng hơn. Thơ ca trong thời hiện đại không còn
giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống con người nữa, chẳng có gì quá đáng nếu ta
xem nó như là một di chỉ của nền văn minh nhân loại đã qua, nó đã trở thành cổ
tích.
Chưa hết,
chúng ta còn đang sống trong một thời kỳ mà các cuộc khủng hoảng trên thế giới
hình như liên tục tiếp diễn: chiến tranh; khủng hoảng kinh tế, chính trị; các
băn khoăn về môi trường và biến đổi khí hậu; thậm chí cả những thảm họa từ
thiên nhiên như động đất và thời tiết cũng được khuếch đại trong mối tương tác
với một môi trường vốn từ lâu đã bị con người tha hóa biến đổi theo chiều hướng
xấu. Toàn những vấn nạn to lớn cho con người và thế giới tương lai. Giữa bối cảnh
đó, bạn có nghĩ rằng thơ ca và nghệ thuật nói chung có vai trò trong phản ứng của
chúng ta trước những điều này và trong tiến trình biến đổi lớn hơn của xã hội?
Ở Việt Nam tôi thường nghe người ta tranh
luận về sứ mệnh thơ ca, nhưng đó là thứ sứ mệnh làm thế nào để cõng “sông núi trên
vai” (mà họ dịch là “mountain river on the shoulder” [sic]) hầu đưa đất nước tiến
nhanh tiến mạnh lên Xã hội chủ nghĩa, chứ ít nghe ai nói về những vấn nạn của
thế giới bạn nêu trên. Thực chất, ở ngoài này, từ lâu đã xảy ra những cuộc
tranh luận về các vấn đề này.
Thế
nhưng mục đích của nghệ thuật có phải là thực hiện những công việc to tát nằm
ngoài sự tồn tại của chính nó không? Nghệ thuật có thay đổi điều gì bởi sự tồn
tại hay không tồn tại của nó? Có nên để nghệ thuật khoác chiếc áo sứ mệnh nặng
khôn kham lên thân thể ốm yếu, còm cõi đến thảm thương của nó không? Câu trả lời
chung chung là, dù nhìn dưới lăng kính nào chăng nữa, tôi đều cho rằng nghệ thuật,
nếu thực sự là nghệ thuật, phải là động lực hướng tới những cái tốt đẹp.
Nhưng nghệ thuật hoàn toàn mang tính vị lợi
sẽ không phải nghệ thuật nữa, mà là quảng cáo hay tuyên truyền. Thơ Chế Lan
Viên viết vào thời kỳ chiến tranh Nam-Bắc khích động thanh niên miền Bắc vào
Nam chiến đấu “chống Mỹ cứu nước” là những văn bản tuyên truyền, không hơn
không kém! Không phải thơ, thậm chí, không phải vè.
Nói cho cùng, nghệ thuật, nhất là nghệ thuật
thơ ca, sau khi mọi chuyện ồn ỹ lắng đọng, vào cuối ngày chỉ để lại chút niềm
vui nho nhỏ trong lòng người làm thơ và người đọc thơ. Một chút giao cảm nào đó
dấy lên, và đó là hạnh phúc. Nhưng ngay cả niềm vui vô ích cũng không phải là tầm
thường. Niềm vui chẳng có ý nghĩa trọng đại và không “đạt được” gì cả, nhưng lại
là sự mở rộng thước đo không thể thiếu trong bất kỳ cuộc sống nào. Tại sao
chúng ta muốn công lý, hay giảm bớt đau khổ, nếu không phải vì sự gia tăng hạnh
phúc đơn giản mà nó mang lại?
Nghệ thuật không hẳn chỉ là vấn đề đáp ứng
được cái đẹp, đem đến sự an ủi hay tìm lòng bình yên, mặc dù điều đó có thể xảy
ra và có thể được hoan nghênh. Nghệ thuật cũng không hẳn để chỉnh đốn tính cách
khiến cho cuộc sống tốt đẹp hơn, mặc dù điều đó đã xảy ra ở chừng mực nào đó
trong lịch sử loài người, có thể đang xảy ra và tương lai vẫn có nhiều hứa hẹn.
Tôi chỉ có thể nói một cách hết sức giản dị rằng nghệ thuật tốt là nghệ thuật có
khả năng điều chỉnh lại tầm nhìn hầu làm giảm bớt sự loạn thị trong mắt chúng
ta, giúp trái tim chúng ta đập cùng một nhịp đập với thiên nhiên và người bạn đồng
hành. Điều này tôi không giải thích được mà chỉ cảm thấy trong mạch đập của
mình khi đọc những bài thơ hay.
Tôi không nghĩ thơ ca sẽ biến mất khỏi mặt địa cầu, mặc dù ngày nay nó co cụm lại thành những cái “túi nhỏ”, trong đó các thi sĩ vẫn đắm chìm trong chữ nghĩa của mình để bày tỏ điều gì đó, không nhất thiết phải bày tỏ với ai, mà với chính mình. Những người làm thơ của thời đại hôm nay là những kẻ tự chọn đứng bên lề xu hướng thời đại, nhưng không chịu từ bỏ quan niệm cố hữu vốn xem mục đích của thơ ca bao gồm nhiều chức năng khác nhau, phản ánh khả năng thích ứng và sự phù hợp lâu dài của thơ trong cuộc sống.
– Trịnh Y Thư