TÓM TẮT:
Trong tham luận này, sau khi giới thiệu sự nghiệp sáng tác (truyện ngắn, truyện dài, tạp bút…) của Bình Nguyên Lộc, người viết phân tích tâm sự của nhà văn khi ông trả lời những cuộc phỏng vấn về “sống và viết”. Phần quan trọng nhất của tham luận dành để trình bày những cảm nhận của một người sáng tác thuộc thế hệ sau về khung cảnh, nhân vật, triết lý và ngôn ngữ trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Đối với tác giả tham luận này, dường như trong mọi ngõ ngách của cuộc sống, trong mọi thời điểm, luôn luôn thấy bóng dáng những gì Bình Nguyên Lộc đã viết ra từ nhiều thập niên trước.
1.
Bình-nguyên Lộc – sự nghiệp lập ngôn
Bình-nguyên
Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 (giấy tờ ghi 1915),
tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân
Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), trong một gia đình trung lưu ở đó lâu
đời[1].
Theo
hồi ký của Bình-nguyên Lộc, ông có văn xuôi xuất hiện trên mặt báo Sài Gòn sau
khi người bạn đồng niên là Nguyễn Nhược Pháp qua đời (Nguyễn Nhược Pháp mất năm
1938)[2]. Theo Sơn Nam: … trong tập
Nhốt Gió (xuất bản năm 1950) có
truyện sáng tác vào những năm 1946, 1947[3]. Bình-nguyên Lộc sống ở
Sài Gòn từ 1949 đến 1985, được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo chương trình đoàn tụ
gia đình, định cư tại tiểu bang California, từ trần ngày 7 tháng 3 năm 1987 vì
bệnh cao huyết áp, hưởng thọ 74 tuổi[4].
Bút
danh của ông, chữ Bình viết hoa, nguyên không viết hoa, Bình và nguyên liền với nhau bằng dấu gạch nối, Lộc viết hoa, không có gạch nối với nguyên. (Bìa trong tập truyện ngắn Thầm Lặng, Thụy Hương xuất bản 1967 và trang cuối sách này, quảng
cáo quyển Một
nàng hai chàng cũng in như vậy). Một số bút danh khác là: Phong Ngạn, Phóng
Ngang, Phóng Dọc, Tôn Dzật Huân, Hồ Văn Huấn, Diên Quỳnh…[5]
Bình-nguyên Lộc viết văn, cũng có làm thơ, chủ trương tuần
báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. Ông cộng tác với nhiều tạp
chí, tuần báo, nhật báo. Những năm 1960-1975, có giai đoạn ông viết 11 truyện
dài hàng ngày cho các nhật báo. Năm 1959 tiểu thuyết Đò Dọc được giải thưởng văn chương toàn quốc (Việt Nam Cộng Hòa).
Ông được mời tham gia Ban tuyển trạch các cuộc thi truyện ngắn (1965), hồi ký
(1972) của Trung tâm Văn bút Việt Nam và những cuộc thi khác như thi báo Xuân
Học đường của Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên (1975)… Trên bình diện nghiên
cứu, bên cạnh những bài viết về lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc, sưu tầm chú giải cổ
văn…, năm 1971 “nhà văn Bình-nguyên Lộc đã làm cho nhiều người sửng sốt với một
tác phẩm đồ sộ về Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”[6].
Bình-nguyên Lộc còn có những buổi nói chuyện với đề tài hấp
dẫn nhiều người, như “Danh từ địa phương của người bình dân Miền Nam để
chỉ bịnh tật” (1962); “Truyện ngắn,
tân truyện, tiểu thuyết” (1969); Sự
liên hệ giữa gốc tổ Việt Nam và gốc tổ
Mã Lai trên căn bản ngôn ngữ (1972) v.v…[7].
Cho đến nay, sự nghiệp văn chương của Bình-nguyên Lộc được
nhiều người đánh giá rất cao. Với số lượng tác phẩm đã hoàn thành tính đến ngày
31/5/1966[8]. Nguiễn Ngu Í nhận định: “…Bình-nguyên
Lộc xứng đáng họp cùng hai tiểu thuyết gia nổi tiếng: Lê Văn Trương, Hồ Biểu
Chánh để thành “Tam Kiệt” trong giới các nhà văn sáng tác nhiều…”[9].
Trong
bài Tựa tiểu thuyết Khi người chết có mặt của Nguiễn Ngu Í
(NXB Ngày Xanh, 1962), Bình-nguyên Lộc viết: “Nếu
một tiểu thuyết nói được cái gì thì tiểu thuyết ấy có giá trị về tư tưởng. Nếu
một tiểu thuyết không nói được cái gì cả, nhưng văn hay thì tiểu thuyết ấy có
giá trị về văn chương. Nếu một tiểu thuyết không nói được cái gì cả mà văn cũng
không có gì đặc sắc, nhưng hấp dẫn vô song thì tiểu thuyết ấy có giá trị về…
tiểu thuyết. Trong ba đức tính của tiểu thuyết kể trên, một tác giả ít lắm cũng
phải tạo được một cho tác phẩm mình. Tuy nhiên cái đức tính thứ ba, mà người ta
xem thường lại là đức tính cốt yếu, vì dầu sao, tiểu thuyết cũng phải là tiểu
thuyết trước cái đã, nghĩa là phải nhiều tình tiết để lôi cuốn người đọc. Cái
“lẽ có” đầu tiên và chính thị của tiểu thuyết là giải trí người đọc.
Nếu chỉ cần tư tưởng thì một đại luận nói được nhiều hơn tiểu thuyết, nếu
chỉ cần văn chương thì một tập tùy bút dài là môi trường lý tưởng cho văn
chương, không cần phải bày ra loại tiểu thuyết làm gì cho thêm rắc rối. (…) Các
nhà văn, các nhà tư tưởng hay khinh miệt loại truyện “mua vui cũng được một vài
trống canh” lắm. Nhưng giải trí người ta được một vài trống canh, lại không
giúp ích à? […] Nếu không dạy ai được điều gì, thì giải trí thiên hạ là góp
phần vào việc giúp ích đồng loại vậy?.
Trao
đổi với Nguiễn Ngu Í, Bình-nguyên Lộc nói: “… Với tôi, cốt truyện mình có thể
bịa được, còn các chi tiết thì không. Nếu không phải do chính mình đã thấy, đã
nghe, đã làm, thì cũng do các bạn trải qua thuật lại. Tôi cho những chi tiết ấy
làm nên giá trị tác phẩm”[10].
Bình-nguyên
Lộc lại bàn đến chi tiết trong bài trả lời cuộc phỏng vấn văn nghệ của tạp chí Bách Khoa về truyện ngắn hay nhứt: “Tôi
chọn ngay truyện Năm hạn. Năm hạn là truyện đầu tiên của tập
truyện ngắn nhan là Truyện quê do nhà
Lượm lúa vàng xuất bản hồi tiền chiến (Hà Nội 1942) … Thảm cảnh của dân quê
miền châu thổ Nhĩ Hà, tác giả (Trần Tiêu) đã đưa ra một cách thản nhiên, lạnh
lùng, nhưng hùng biện, không nói ra mà người đọc thấy ngay, linh hoạt hơn lời
phân tích sâu sắc nào cả. Nghệ thuật là ở chỗ đó: để sự việc nói thay cho tác
giả […]. Truyện ngắn ngoại quốc? Theo tôi thì truyện Johnny, người gấu của John
Steinbeck là truyện hay nhứt … Một truyện ngắn hay phải có đủ những đức tính
nầy: nội dung câu chuyện và nghệ thuật. Câu chuyện lắm khi không cần mà người
đọc vẫn không thấy chán nhờ nghệ thuật bù qua. Nghệ thuật thì gồm lối dựng
truyện, cách bố trí, hành văn và linh hồn truyện, tức là những chi tiết nhỏ, những
ý nghĩ nhỏ rải rác trong đó”[11].
Bình-nguyên Lộc gọi thế giới chữ nghĩa
của người sáng tác là “Một thế giới tự tạo: Một tiểu thuyết gia bắt đầu một
chương sách, cũng giống hệt như anh con trai bắt đầu tỏ tình với cô gái có
nhiều cảm tình với anh ta. Cả hai, tác giả và anh con trai, đều biết đại khái
kết cuộc ra sao, cả người thứ ba là độc giả cũng đoán biết nữa, nhưng cái cuộc
đời sống thật của những giây phút tỏ tình ấy, ba hạng người trên đều mù tịt,
trước khi chương sách được khởi thảo, được đọc. Cậu không biết mình sẽ bối rối mức
độ nào, tác giả cũng thế. Độc giả cũng không biết được sự xúc động của nàng ra
sao … Một cảnh trong tiểu thuyết là cả một thế giới. Thế giới ấy, nó tự tạo lấy
nó, tác giả không còn làm chủ được ngòi bút của mình nữa và những cái bất ngờ
thú vị, có giá trị như là một khám phá, đối với độc giả, cũng là những bất ngờ
của chính tác giả nữa …”[12].
Nguyễn
Nam Anh, trong một cuộc phỏng vấn đã
khai thác được ở Bình-nguyên Lộc nhiều điều. Về một tác phẩm lớn: “Một
tác phẩm lớn, theo tôi, không bắt buộc phải đề cập tới một vấn đề lớn, mà là
một tác phẩm nói được nhiều về một chuyện nhỏ. Theo tôi, Pour qui sonne le glas là một tác phẩm lớn, mặc dầu kể chuyện ra,
người nghe sẽ thấy lảng xẹt: một tay kháng chiến ngoại quốc trong cuộc nội
chiến Tây Ban Nha, được lịnh mang chất nổ đến phá sập một chiếc cầu bắc ngang
một sơn khê sâu thẳm. Đến nơi, anh ta bị kháng chiến địa phương ngăn trở, vì họ
sợ bị lộ tung tích, bởi đó là nơi an toàn của họ. Anh đặc công vừa thuyết phục,
vừa vận động và anh được họ cho hoạt động. Anh thành công, nhưng bị tử thương.
Câu chuyện chẳng có gì hết, mà ý chuyện thì cũng chỉ là một ý vặt: phá một
chiếc cầu là một chuyện quá nhỏ trong một cuộc nội chiến lớn, nhưng tác giả đã
cho ta thấy được cả toàn thể cuộc nội chiến ấy với những bi đát, những ẩn tình
trong đó.” - Nghĩ sao khi có người phân biệt hai danh từ nhà văn (l’écrivain)
và kẻ dụng văn (l’écrivant), Bình-nguyên Lộc trả lời: “… Quả thật có hai hạng
người đó. Nhưng có cái bậy nầy là Âu Mỹ và ta đều khinh miệt hạng sau. Tại sao
lại khinh miệt họ? Nếu họ không viết được những tác phẩm giá trị thì ít ra họ
cũng phục vụ chị bếp, con sen, và cả các cô ký nữa. Tôi thử hỏi một cô ký mê
tiểu thuyết ba xu không hơn cô ký mê tổ tôm hay sao chớ? Trên đời này kẻ có tài
không được phép coi rẻ kẻ kém tài … Vả lại giá trị nghệ thuật chưa chắc đã hữu
dụng bằng sách nhảm? … Tôi mến phục các nhà văn lớn, nhưng tôi cũng mến phục
các anh Écrivant nếu họ không có làm
gì bậy bạ mà chỉ viết truyện ba xu, bán lấy tiền nuôi con. Giữa tài với đức,
đức phải hơn … Tôi loại danh từ Écrivant
ra khỏi cái vốn liếng danh từ mà tôi thường dùng, bởi vì ông tướng không có hạ
sĩ thì ông tướng ấy cũng đành nằm co … Văn chương có giúp cho đời sống, cho dẫu
rằng tác phẩm chỉ là tiếng thì thầm của một người nói với chính mình. Người ta
sẽ “điều chỉnh” tâm hồn của người ta, tình cảm của người ta, khi tán thành hoặc
đả kích mình. Như vậy cũng là giúp ích rồi …”[13].
Bình-nguyên
Lộc, Nguyễn Mạnh Côn cùng nói chuyện với Viên Linh. Viên Linh đặt câu hỏi. –Anh
có bao giờ cảm thấy bị dồn vào góc không? Bình-nguyên Lộc đáp: “Có chớ. Nhưng
thiếu gì ngã rẽ. Cái gì chưa tiện viết thì sau sẽ viết. Đâu phải chỉ có vài vấn
đề là hữu ích, và không viết được ngay thì chẳng còn gì để mà viết nữa”[14].
Bình-nguyên
Lộc có vài lần nói về kinh nghiệm viết văn, Bài trên Thời Tập mở đầu bằng mẩu chuyện thú vị. Tác giả có người bạn làm
thợ mộc. Ván mua về chỉ đúng ở bề dày và bề dài, còn chiều thứ ba thì họ cứ để
vậy. “Ông thợ mộc phải đẽo cái biên ván không được săn sóc đó, mà ông ta đẽo
theo một kỹ thuật cũng khá lạ lùng. Ông ta cho một nhát rìu vào gỗ, rồi bỏ đó,
bước tới nửa bước, cho thêm một nhát khác, mãi cho đến lúc ông ta bước tới đầu
tấm ván, thì ông ta mới dùng rìu mà róc như ta róc mía. Tôi chẳng biết tại sao
mà ông ta làm như vậy, hỏi ông ta thì ông ta cũng giải thích chẳng được. Mà ông
ta đã hành nghề từ ba mươi năm nay rồi, tức đã giàu kinh nghiệm. Tôi tự tìm
hiểu thì mới biết đâu là đâu. Đẽo gỗ theo lối đó, tức là cưa theo kỹ thuật của
thời mà nhân loại chưa biết cái cưa. Đáng lý phải cưa chớ, nhưng ông ta chót
làm thợ chuyên môn nên không biết cưa. Vậy ông ta đẽo, đẽo róc thì đường gỗ bị
đẽo sẽ đi ngay, tương đối ngay như đường cưa, chứ đẽo cho xong một nơi rồi mới
đẽo nơi khác thì bìa ván sẽ lồi lõm. Tôi thuộc hạng thợ không biết cắt nghĩa, y
như người bạn của tôi. Tôi biết viết văn thì phải làm sao, nhưng bảo tôi phân
tách kỹ thuật thì tôi làm chẳng được. Hình như lý thuyết gia và văn nghệ sĩ là
hai thứ người khác nhau: một đàng biết nói nhưng chưa chắc làm được, một đàng
biết làm, nhưng không biết trình bày cách thức làm”.
Tuy
vậy, Bình-nguyên Lộc cũng đưa ra sáu kinh nghiệm. Kinh nghiệm thứ nhất, có lẽ
là hay nhất: Không thành nhà văn thì
không có sao cả, chẳng hại cho ta mà cũng chẳng hại cho đời. Kinh nghiệm
thứ hai: Viết văn là một việc có thể học
được cho thành công nếu có người dìu dắt đúng mức, và nếu mình chịu nghe người
đó. Dĩ nhiên không kể những người tự tạo. Kinh nghiệm thứ ba: Viết văn thành công cũng không trở thành
nhà văn được, nếu ta chẳng có gì để nói ra. Có gạch, có xi măng, có ngói, nhưng
thiếu ông kiến trúc thì xây cất sao được. Kinh nghiệm thứ tư: Phải đọc tương đối hết các tác phẩm nổi
danh trong nước và ngoài nước thì mới xong. Đọc sách không phải để cóp người ta
mà để biết người ta đã tiến đến đâu, hầu mình rượt theo họ, và nhất là vượt họ,
nếu được. Kinh nghiệm thứ năm: Không
có sống thì viết tiểu thuyết ắt không thành công, sống ở đây không có nghĩa là
sống thẳng mà có thể tạm sống qua trung gian. Chẳng nên bận tâm lắm về cốt
truyện. Cốt truyện hấp dẫn chẳng bao giờ làm hạ giá tác phẩm được, và cốt
truyện khô khan chẳng bao giờ tăng giá của tác phẩm được. Người ta xét tiểu
thuyết về mặt khác mà bất kể đến cốt truyện. Kinh nghiệm thứ sáu: Tìm hứng, hình như là nỗi băn khoăn lớn của
nhiều bạn. Tôi thấy rằng có hai ngộ nhận trong việc tìm hứng. Một phái cho rằng
hứng tự nhiên mà đến, không thể tìm được. Phái khác thì quả quyết hễ tìm thì
hứng phải được gặp. Như tôi đã nói trên kia là những gì mà ta viết đều phải có
sẵn trong lòng ta. Nếu nó vắng mặt nơi lòng ta thì ta làm thế nào để tìm nó
được? Tôi thấy rằng những cái đó có sẵn đó chỉ khi nào nó gặp khí hậu hạp cho
sự xuất hiện của nó. Khí hậu đó không phải là sự nằm đó, (mà phải) nỗ lực tìm tòi…Điều Bình-nguyên Lộc
gọi là “khí hậu” có thể nói là không gian, môi trường, thời gian cần cho nhà
văn “sống” để “viết”, rộng hay hẹp, lâu
hay mau tùy mỗi trường hợp[15].
Ông
nói về việc viết truyện dài cho nhật báo đăng hàng ngày:
“ Ấy, người ngoài nghề không làm sao
mà biết được chuyện bê bối của các tay viết tiểu thuyết cho báo hàng ngày, mà
kẻ này là một. Phải chun vào nhà in, vì thợ sắp chữ họ gào họ thét, họ đòi bài,
ta vào đó, xé giấy ra từng mảnh nhỏ, viết được ba bốn giòng chữ thì nộp cho một
anh thợ để anh xếp chữ ngay, kẻo không kịp in. Ta lại viết ba bốn giòng nữa
giao cho anh thợ thứ nhì, nếu anh thợ thứ nhứt khi nãy chưa làm xong công việc.
Chun vào nhà in để được gần thợ, hầu nộp bài cho nhanh ấy mà! … Cái chuyện nộp
bài từng giòng, vào phút chót tuy ít xảy ra, nhưng vẫn có xảy ra cho bất kỳ tay
viết tiểu thuyết nào viết giúp cho nhựt báo.”
“Phần lớn các kỳ bài của tiểu thuyết Đò Dọc tôi đều viết như vậy, nhưng cũng không làm tròn nhiệm vụ. Tôi viết ít hơn khối lượng chữ phải nộp mỗi ngày, và để cho đầy các ô mà nhà báo để dành cho tiểu thuyết của tôi, tôi đã hối lộ cho thợ nhà in, nhờ họ cứ cho xuống dòng mãi. Hễ tôi chấm câu là họ phải xuống dòng. Về sau, khi tiểu thuyết này in thành sách tôi đã quên mất mưu trá cũ, cứ đưa báo cắt cho họ, không có bớt những lằn xuống dòng lạm phát nên nhiều người đọc sách thường hỏi: “Quái sao cái anh tác giả này mắc chứng gì mà một trang sách cho xuống dòng đến tám lần?”[16].
2.
Tôi đọc Bình-nguyên Lộc
Quê tôi, huyện Sơn Hòa, một huyện miền núi của tỉnh Phú Yên. Suốt thời Hán học
chỉ có hai vị đậu Cử nhân, thời quốc ngữ cho đến năm 1945 chưa có một người đậu
bằng Trung học. Chín năm chiến tranh Việt Pháp (1945-1954) chưa có trường cấp
II, một nửa huyện bị tàn phá, tiêu thổ. Huyện lỵ (hồi ấy chưa gọi là thị trấn)
hồi sinh từ năm 1955, tôi sống ở đó được hai năm rồi rời xa nó đến 18 năm sau
mới trở lại. Hai năm ấy đã ghi khắc vào lòng tôi những nét sâu đậm bởi tôi được
tiếp xúc với bước khởi đầu một nền văn học mới, ngày nay nhiều người gọi là Văn học Miền Nam.
Tuổi sơ học, tôi chỉ đọc phần “Tạp loại” (gồm thơ và truyện cổ) trên Giáo Dục tạp chí (Nha Học
chánh Đông Dương). Lên trung học tôi có điều kiện đọc khá nhiều tác phẩm xuất
bản ở Hà Nội trước năm 1945, của Tự Lực văn đoàn, Phổ Thông bán nguyệt san, Tân
Dân, Sách Hồng, Truyền Bá và nhiều sách không biết của nhà xuất bản nào, nhiều
tác giả không nhớ tên. Năm 1952 đọc Tập
văn Cách mạng và Kháng chiến xuất bản ở Việt Bắc, đọc những tác giả Liên
khu V … Năm 1956-1957, không biết do nguồn tài trợ nào, từ đâu, Chi Thông tin
quận luôn luôn nhận được nhật báo Cách
Mạng Quốc Gia, các tạp chí Mùa Lúa
Mới, Ý Dân, Lành Mạnh, Sinh Lực… và sau là Bách Khoa. Trưởng chi Thông tin lúc đầu là ông Hà Sĩ Trung (nhà văn
Sĩ Trung) sau là một người Bình Định (học trò thi sĩ Lam Giang). Cả hai vị đều
cho tôi thủ đắc toàn bộ những sách báo mà tôi thấy thích, thấy cần. Tôi đọc Võ
Phiến, Đỗ Tấn, Tiểu Hứa Do trên Mùa Lúa
Mới, đọc Tô Kiều Ngân trên đặc san Lửa Thiêng… Đọc Bình-nguyên Lộc ở báo
nào không nhớ nữa, cũng được nghe giải
thích là “Con Nai Đồng Bằng”. Lúc ấy có một tác giả bút danh Bình Sơn Lộc, chỉ
thấy hai lần, rồi thôi, tan biến vào hư không. Từ 1958 lần lượt có dịp đọc
nhiều hơn, Văn Hóa Ngày Nay, Tân Phong,
Phổ Thông, Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Thời Nay, Văn, Vấn Đề v.v…
Như vậy, có thể nói tôi đã theo dõi được tiến trình văn học Việt Nam thời quốc
ngữ, từ tiền chiến, qua kháng chiến đến đương đại.
Sáng tác của Bình-nguyên Lộc đăng trên hai tạp chí Bách Khoa và Văn không nhiều, ít hơn những bài biên khảo của ông nữa. Vậy đọc
Bình-nguyên Lộc là gặp đâu đọc đó, cả những quyển in bìa đen trắng, trên bìa
chỉ có bút danh tác giả và tên sách. Những điều đọng lại trong lòng tôi cũng
dàn trải, rải rác, thật nhiều mà cũng khó lòng gom lại, sắp xếp thành hệ thống.
Tôi thường luôn nghĩ rằng văn chương tác động vào lòng người
một cách “trực tiếp”, thơ còn thêm tính cách “tức khắc” nữa. Thiếu hai tính
cách ấy, đợi có người giảng giải phân tích mới cảm nhận được, thì thưởng thức
văn chương không còn gì thú vị. Nhưng tôi cũng không thích những tác phẩm mà sự
rung cảm qua vài giây phút bay bổng mất tiêu. Cho dù là đọc một đoạn “tạp ghi”,
tôi cần được tham gia tái tạo tác phẩm bằng những suy nghĩ, tìm hiểu, liên
tưởng, có khi tra cứu tư liệu, trao đổi với bằng hữu… Hơn nữa, tôi phải soi thấy
hình bóng chính mình trong đó, chứ không phải như những cư dân Xóm Cầu Mới trong tiểu thuyết của Nhất
Linh[17], ngày ngày nhìn thấy cô
Mùi, họ biết cô Mùi đẹp, kính trọng phong cách đoan trang hiền thục, nhưng
không thể yêu mến, cảm thông, vì cô Mùi là người của cõi xa lạ, từ biệt thự
thâm cung đi ra rồi đi vào, trầm lặng, hững hờ.
Nhân dịp được tham gia cuộc hội thảo này tôi mới hỏi tôi:
Vậy ta đọc Bình-nguyên Lộc thế nào? Câu hỏi ấy, 60 năm nay tôi chưa hề đặt ra,
có lẽ vì nó là sự tự nhiên trong tâm thức do quý mến ông, tôi đã không biết
tới, không cảm thấy.
Chợt nhớ, chợt nghĩ thì Rừng
Mắm là truyện đầu tiên xuất hiện. Thời gian của thằng Cộc là trời cho vô
tận, nó cứ yên lặng mà nhìn ngắm những con chim thằng chài, chim thầy bói để
tha hồ nghĩ đến những năm tháng cũ, nghe thèm người hơn là thèm ăn trái xoài,
trái khế, cục đường, đã năm năm không được nếm. Mang mang trong ảo ảnh khói
sương, Cộc nhớ đến con Thôi, không thuộc giọng, không biết câu hò cũng mơ ước
được đối đáp với con Thôi. Cộc nói láo nhưng nói láo không có sách khi trả lời
mẹ đi lượm lông chim lông ô, đời này đâu còn nữa. Truyện có sáu nhân vật, trung
tâm là thằng Cộc, hay nói cách khác, thằng Cộc là hạt nhân, tan loãng bềnh bồng
trong không gian có nhiều loài chim, có rau bồn bồn, có những đám ruộng mười
công đất gặt được tám giạ lúa. Không gian ấy mở rộng với niềm tin số lúa thu
hoạch được sẽ là hăm lăm giạ, với mấy loại rau thơm trồng trên bốn miếng vườn
cao cẳng tí hon, đang nuôi hi vọng năm tới gieo giống lúa tầm vuột chắc được
gạo hơn, chuối trổ buồng là trồng sả trồng ổi được. Không gian ấy trở thành bao
la với Rừng Mắm. Liệu thằng Cộc có hiểu trọn lời ông nội? “Phù sa là đất bùn
mềm lũn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng, nếu không có rừng mắm
mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi
nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được. Ông với lại tía
con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn
chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời mắm tuy
vô ích, nhưng không uổng, như là người lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho
kẻ khác là con cháu họ hưởng”. Cộc trầm ngâm, hiểu, nó than “tràm buồn quá”,
nhưng nó chợt vui khi biết “gì chớ chè thì sẽ có lu bù”, rồi lại lo “cưới vợ làm
sao được, ai thèm về Ô Heo!”.
Tôi nghe văng vẳng mà rõ ràng những câu hò: “Tháng ba cơm gói ra hòn. Muốn ăn trứng nhạn phải
lòn hang mai.”. Từ những loài chim trong Rừng Mắm tôi biết thêm nhiều loài nữa trong Tìm hiều đất Hậu Giang của Sơn Nam, từ chiếc ghe cui tôi biết thêm
chiếc ghe hầu (qua Nguyễn Hiến Lê, Nguiễn Ngu Í), lại xem xét về thời tiết
tháng ba ở nơi này, cơm gói có là cơm vắt, hòn là hòn gì, ở đâu, và trứng nhạn,
và hang mai, hay Hang Mai? Những câu hò Nam Bộ lồng lộng gió trời, nhẹ hẫng mà
bâng khuâng không cho tôi thoát khỏi “phù sa”, hai tiếng ấy hình như chẳng bao
giờ xa rời Bình-nguyên Lộc. Cả khi được phỏng vấn về hiện tượng sách dịch phong
phú đa diện, Bình-nguyên Lộc lạc quan cho rằng đó là “phù sa đưa đất màu tới
đồng bằng văn chương của ta”[18].
Câu “Rồng
chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai” tôi nghĩ xuất phát tự Thừa
tuyên Quảng Nam là các tỉnh Nam Trung Bộ, theo bước lưu dân vào tận “xóm Ô
Heo”. Cùng với cả Xứ Đàng Trong, những người dân Thừa tuyên
Quảng Nam từ xưa góp nhiều công lao, cả máu đào, tâm trí, sức lực, cho đại cuộc
của Tổ Quốc từ Nam Quan tới Hà Tiên…
Hà Tiên được nhắc đến trong bài vè cô Quá hát mỉa mai các
chị (Đò Dọc): “...Bậu lỡ thời như ớt chín cây. Ớt chín cây
người ta còn hái. Bậu lỡ thời như nhái lột da. Nhái lột da người ta còn bắt.
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên. Giặc Hà Tiên người ta còn đánh. Bậu lỡ thời như
bánh trôi sông ...”. Ở quê tôi, chỉ nghe: “... Ớt chín cây người ta còn hái. Bậu lỡ thì như vãi đi tu. Vãi đi tu người
ta còn cúng. Bậu lỡ thì như thúng lủng trôn. Thúng lủng trôn người ta hốt
rác...”. Lịch sử Hà Tiên còn mới quá, tôi phải đi tìm giặc Hà Tiên là giặc nào, vào thời điểm nào?
Đất Trời, Sông Núi Phương Nam đã “trả
công” cho các thế hệ “mắm” và “tràm” những cánh đồng mút mắt, làm chơi ăn
thiệt, ban cho họ cả tấm lòng yêu thương rộng mở, không so đo, tính toán, chỉ
cân nhắc điều thiện, đem kết quả tốt đẹp cho người khác. Trong Thám hiểm lòng người Cô Năm, người cho
thuê phòng trọ, nấu cơm tháng khẳng định việc phải thương người: “Người bậy cũng thương để họ cảm mến mà cải ác tùng
thiện”. Đến kẻ trộm như Ba Khện cũng
có lương tâm. Cái cảnh “hai con bò cứ
máy móc chẫm rãi bước đi chầm chậm trong khi trên xe, hai người lạ mặt đánh
nhau, vật nhau, dưới một bầu trời sáng sao”, cứ y như là phim cao bồi Mỹ, chiếu
lên màn ảnh chắc bọn trẻ con (lứa chúng tôi thời ấy) vỗ tay bể rạp. Hai người,
không muốn hại nhau, đều muốn thắng và cần thắng. Nhưng khi vật ngã kẻ kia
xuống, đạp chưn lên bụng hắn, lương tâm
kẻ trộm (nãy giờ chưa ngủ) vùng
dậy thật tỉnh táo. Người đọc ngạc nhiên không kém gì anh chàng đi rước thầy rắn
và tự tưởng tượng mọi tình huống bi hài kết cục.
Khi thất tình, thi sĩ Tạ Ký viết: “Người ta cười anh dại. Yêu không tính thiệt hơn. Yêu mà lời với lãi.
Còn chi là tâm hồn”. Nhân vật của Bình-nguyên Lộc cũng thế. Anh Tư
Được đang làm công nhân trên một chiếc phà máy ở Cần Thơ, nhìn mãi tấm bảng
quảng cáo kem đánh răng vẽ một người đẹp, hình ảnh in sâu vào tâm hồn và đâm ra
yêu say đắm người ấy. Tư Được bỗng nhiên làm một chuyện “trời ơi” là bỏ nghề,
lên Sài Gòn học chạy xích lô máy để tìm người đẹp. Quả là đáy biển tìm kim,
nhưng anh đã hai lần gặp người đẹp. (Có thật không, có đúng không, nào ai biết
được, dù chính anh nhất quyết đó là “người đẹp ven sông”). Và thần tượng sụp đổ.
“Anh kêu trời thầm lên một tiếng, nấc mấy cái rồi khóc òa … Anh yêu người đẹp
một cách cung kính như tín đồ Phật Giáo yêu Đức Bà Quan Âm. Nhưng tác phong của người
đẹp mà anh tình cờ bắt chợt, đã gây một sự sụp đổ ê chề nơi lòng anh. Tượng Đức
Bà Quan Âm mà anh chiêm bái bao lâu nay, bỗng dưng ngã xuống, và anh xem lại
thì tượng làm bằng một thứ nguyên liệu bẩn thỉu vô cùng …”. Ngoài đời có một người yêu đương đến mức độ “điên khùng quá quắt”
như vậy sao? Hay chỉ có trong tác phẩm để Bình-nguyên Lộc chứng minh cho ý
tưởng: “Khi ái tình thanh cao quá và người ta yêu cao quý quá, tình yêu biến
thành một tín ngưỡng gần ngang hàng với bất kỳ tín ngưỡng đứng đắn nào”. Trên
đường về khi qua bắc Basac nhìn rõ khuôn mặt trốc nước sơn, loang lổ nhiều nơi,
miệng như đang mếu, anh thầm hỏi: “Phong trần nơi bến bắc chà đạp chơn dung của
nàng làm cho nàng buồn, hay phong trần của xa hoa chà đạp đời nàng khiến nàng
đau?”. Và anh thầm nghe tiếng người đẹp vọng theo: “…Chẳng qua đời là thế đó
thôi!”.
Bên cạnh Tư Được, chỉ
riêng tập Thầm Lặng (sách đen trắng),
lật ra tình cờ, gặp ngay cô Diệu (trong Rắn
cắn làm phước) “Trả Nghĩa lại cho đời, còn nguyên vẹn là anh con trai”, cô
Hồng (trong Đứa con đủ tháng) đều vị
tha, cao cả. Thằng Bò ngoại sổ tráng đinh đúng là người “bản thiện”. Còn như
ông Tư Khăm và cô Út liên kết với nhau “thí một con chốt hốt một con xe”, những
ghe dưa kia sạt nghiệp là do họ mê gái chớ có ai bắt ép đâu, đến giờ chót ông
mang dưa lên chợ kêu nhà nghèo tới bố thí, giả hay thật cũng là “làm phước để
bớt tội với trời đất”. Nói cho đúng, thì cái tính cao thượng đậm chất lãng mạn
chân tình, nho phong đồng ruộng (của các nhân vật) ấy chính là của Bình-nguyên
Lộc.
Trong
văn Bình-nguyên Lộc, dẫu cảnh buồn vẫn ẩn hiện một chút vui nhẹ nhàng của kỉ
niệm. Thả “những bước lang thang trên hè
phố” ta gặp ngay “những hàng me Sài Gòn”. Nghe đâu đây trong tiềm thức
giọng khúc khích tự trào: “Sài Gòn ne, ăn me ỉa chảy”, rồi lời thơ tiếng hát
của những “ai ra đi nhớ hàng me già” và những ai sống cảnh vô gia cư tự nhận là
“người Việt gốc me”. Thời trai trẻ, mỗi lần vào Sài Gòn tôi vẫn thích đi dưới
những tàn me, nhìn những chiếc lá nhỏ rụng theo chiều gió thấy Sài Gòn “đời”
lắm, ta hòa nhập vào Sài Gòn làm một cá nhân trong khối nhân sinh đông đảo
không bị ngăn cách phân biệt. Cây me có phải là “thực vật tương tự” của những
cây phần, cây thông, cây bàng, cây mù u trong thơ ca? Tôi lại liên tưởng về
làng quê, thương nhớ cây me già trong vườn sau nhà mỗi buổi chiều xếp lá ngủ…
Đọc Sông Ông Lãnh. Tôi nghiệm ra sự gần gũi giữa quan và dân Nam Hà
(Đàng Trong). Người dân quên các vị ấy là “quan”: Cảm thương ông Hậu thủ
thiềng, cù lao Ông Chưởng, sông Ông Lãnh, vườn Ông Thượng… khác với Bắc Hà:
Ô Quan Chưởng. Tác giả mách cho ta biết
“từ mười mấy năm trước, chiến tranh đã đẩy lên Sài Gòn nhiều nữ trạo phu chuyên
chèo xuống bằng hai cây chèo một lượt. Trước kia chỉ ở Hậu Giang, người dân mới
biết chèo lối đó thôi. Dân Sài Gòn và dân Miền Đông ít khi được thấy xảo thuật
ấy: lối đẩy mông đá cẳng mỗi bận cất hay hạ mái chèo đôi…”.
Nhân vật của Bình-nguyên Lộc thường hay ca hát. Cô Út sử
dụng giọng ấm mà trong, lúc thì ca vọng cổ, lúc thì hò, với mưu thâm Thí một con chốt hốt một con xe. Trong Đò Dọc, ông Nam Thành ngâm thơ, bà Nam Thành hát điệu ru con, cô
Quá gõ vào chén đánh nhịp bài “tân nhạc” Ai
đi trên con đường thiên lý sương sa mờ, cô Hồng lấy tiếng kêu của lũ ễnh
ương nhại theo Hòn vọng phu: Uềnh oang,
Uềnh oang, Uếnh… Uênh oàng… Trong Thám
hiểm lòng người, ông Phán Ca kể vắn tắt sự việc phiền hà bằng câu hát.
Trong Ba con cáo, những đêm mưa “con
hồ ly” không đi kiếm ăn được ngồi bó gối rên rỉ “Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng…”, giây phút yêu đời
“con cáo đực” nằm ca sáu câu mùi mẫn “Cảnh
vị nhân sầu, xơ xác ngọn vi lau, nước triều mênh mông chảy…”. “Nhà văn”
Quỳnh (Lầu 3 phòng 7) tự đặt lời cho
bản nhạc Bên sông vắng của Tạ Tấn.
Trong Còn Yêu có tiếng hát dưới giàn
bầu, bên nọc trầu. Trong Xe lửa Mỹ bung
vành có tiếng ru con từ một ngôi nhà lá lụp xụp và bác xếp ranh cũng ngâm…
ca dao. Nhộn hơn nữa, một chàng kia làm rể Hoa kiều, ăn cháo khuya quen rồi,
vui vẻ nắm tay cha vợ mà hát: “Ngộ ở bên
Tàu, ngộ mới sang đây…”. Một số không ít nhân vật của Bình-nguyên Lộc là
Hoa kiều. Cách nói tiếng Việt chưa sành của họ cũng như cách nói tiếng Tây bồi
ba-rọi góp thêm phần trào lộng cho trang sách để ta vừa đọc vừa mỉm cười.
Bên cạnh cũng lắm chuyện đau thương. Đau thương, chứ không
phải là buồn. Vui và buồn cùng một hệ thống, vui ít là buồn, buồn ít là vui.
Nhưng đau thương nằm ở một lãnh vực riêng. Nó giết chết hết những vui, những
buồn, khiến ta không còn ý thức được tình cảm của mình nữa. Số phận của những
con Nhộng (Má ơi, má!), anh Nhánh (Không một tiếng vang), những người chuột cống và nhiều người nữa là
những số phận đau thương. Xin cứ để cho những giọt nước mắt tự nhiên đầy tròng,
và có thể lăn xuống gò má, rơi vào trang sách. Đừng vội lau đi. Trước những nỗi
đau thương như thế, nỡ nào ngăn cản nước mắt, dù ta có muốn khóc đâu?
Có người cho rằng cách dẫn chuyện của Bình-nguyên Lộc hơi dễ
dãi. Có thể đây cũng là một góc cạnh của phong cách Nam Bộ. Trong Truyện Vân Tiên, họ Lục lần đầu đi thi,
trúng ngay khôi khoa, đậu Trạng nguyên, vừa lúc ấy giặc phủ vây quan ải. “Sở
vương phán trước ngai vàng. Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong. Trạng nguyên tâu trước bệ rồng: Xin dâng một
tướng anh hùng đề binh.”. Ông tân
Trạng được tin cậy quá sớm, vừa thi đậu, chân ướt chân ráo bước vào hoạn lộ đã
được cử đi đánh giặc (các vị cựu thần đâu rồi?) và đề cử Hớn Minh (anh chàng
đang phạm tội lẩn trốn) làm Phó tướng, được chuẩn y ngay. Xét mặt khác, cụ Đồ
Chiểu là người uyên thâm Nho học, con một viên chức hành chánh, tất nhiên am
hiểu tường tận việc thi cử, sao để Lục Vân Tiên đi thi một kỳ là đậu Trạng
nguyên? Giống như trong những truyện thơ bình dân khuyết danh. Các tác giả bình
dân không cần phân biệt ông Trạng, ông Thám, ông Cử, ông Tú, thi Hương, thi
Hội, thi Đình, hễ người giỏi đi thi là đậu Trạng, Trạng hai ba nước, được vua
gả công chúa nữa. Thế cho bõ những ngày khổ cực. Cụ Đồ Chiểu không phải không
biết quy trình, luật lệ thi cử, nhưng chuyện đó không quan trọng, cụ sẽ cho giặc
Ô Qua gấp gấp tái phát chiến tranh, nếu đợi Vân Tiên đi thi đến mấy kỳ, rồi Vân
Tiên làm quan, thăng tiến dần lên, mất thời gian quá, thôi thì điều thiếu hợp lý
coi như nhỏ nhặt, cứ để Vân Tiên kịp thời lập công.
Lớp hậu duệ của cụ Đồ Chiểu, những Bình-nguyên Lộc, Hồ Hữu
Tường cũng dẫn chuyện như vậy. Hồ Hữu Tường (hơn Bình-nguyên Lộc bốn tuổi)
trong truyện Thuốc Trường Sanh đã cho
vợ chồng Bác sĩ Tâm và Tuyết Lê đêm đêm mật đàm với nhau bằng cách người này
bấm ngón tay trên da thịt người kia. Không phải họ chỉ nói một hai từ mà trao
đổi cả những vấn đề quan trọng, hàng tiếng đồng hồ, bàn nhau về chủ nghĩa, về
thời cuộc, về chuyên điều chế thuốc trường sanh[19]. Họ giỏi thật! Không, họ
không giỏi, ông Hồ Hữu Tường phịa ra chi tiết này để cho họ có dịp mật đàm với
nhau khi đang bị theo dõi ngày đêm đó thôi. Vậy, đọc Bình-nguyên Lộc thấy có
những chỗ có thể hơi phi lý đừng thắc mắc. Chỉ là cái cớ cần có để dẫn chuyện,
ta cứ theo câu chuyện mà đi, không nên dừng lại, hỏi lui hỏi tới.
Tôi
đọc Bình-nguyên Lộc, nhiều truyện, đến dòng cuối cùng, gấp sách lại hay vẫn để
mở đó, cảm thấy một nỗi bâng khuâng: Bên trong cái vẻ không có gì của truyện
này là cái gì? Tôi lần lượt đưa ra câu trả lời, không phải là triết lý, chỉ
hướng theo lẽ phải, theo sự thường, ta nhận được điều gì ở đây? Những nhân vật
của Bình-nguyên Lộc, giàu nghèo sang hèn, tốt và xấu, đều là cư dân của Xóm Cầu Mới, như tôi.
Làng tôi nằm dưới lòng
thung lũng, chung quanh là núi rừng. Vào mùa hè người ta hay đốt núi, tức là
đốt những giồng đồi tranh đế đang khô vàng vì nắng gắt. Buổi tối, từ xóm nhìn
ra, thấy từng mảng rực đỏ. Mai mốt lớp tranh đế mới sẽ vươn lên thay thế. Mùi
tranh cháy thơm phức, đêm trăng quyến rũ đông đảo hươu nai. Tôi nhớ đến Bình
Sơn Lộc. Rồi nhớ Bình-nguyên Lộc. Buổi trưa đi đường qua vùng đốt núi, tôi nghĩ
đến Bà Mọi, tiếng hú như kêu gọi một
cách tuyệt vọng, vang lên từng hồi, hấp hối, lẫn trong tiếng tranh đế cháy lào
xào, khói lửa hừng hực, tiếng mắt tre nổ đôm đốp. Những giồng đồi này là quê
hương của một loài gà rừng, quê tôi gọi là “gà cơm cát”. Chuyện xưa kể rằng
tiền thân của chúng là một đứa bé mồ côi mẹ, cha nó tục huyền, bà dì ghẻ ác
nghiệt cứ trộn cát vào cơm cho nó ăn, đứa bé ngã ra chết, hóa thành loài chim
với tiếng kêu “chát cha chát chát cha cha” được diễn dịch là “Xúc cơm cát trả
cho cha, xúc cơm cát trả cho cha…”. Tiếng kêu như rát cổ, rướm máu, xé lòng ấy,
là nỗi oán hờn giữa đứa bé và bà dì ghẻ, một con người với một con người, còn
tiếng hú của Bà Mọi trong màn lửa thiêu bỏng trưa hè dẫu xa xôi
tận Phương Nam là nỗi oán hờn giữa hai dân tộc. Mỗi bên một cảnh đau thương.
Trong làng có loại ruộng gò (làm một vụ), trước khi gặt đã
khô nước, sau khi gặt chỉ còn gốc rạ, từ xóm này qua xóm kia người ta đi băng
qua ruộng cho gần. Con đường mòn tự nhiên hình thành, có chỗ thẳng, chỗ hơi ẹo,
rất lạ mắt. Đến mùa gieo sạ, con đường
mất đi, để năm sau tái hiện. Tôi nhớ những ý tưởng Bình-nguyên Lộc về thuở ban đầu của những con
đường. Đông Hồ thì tả những con đường trong sân Đại học Văn khoa Sài Gòn: “Người
sinh viên ở đây … thích đạp trên cỏ xanh, đưa bước chân đi. Bước người sau lạ
lùng thay, tự nhiên bước đúng lên dấu chân người trước. Ngày tháng chồng lên.
Thời gian đếm bước chân người, vẽ thành những đường nét uốn éo nên thơ. Bài thơ
lối mòn sao không có trong đó một triết lý thâm trầm, một tâm lý sâu sắc”[20]. Con đường của Đông Hồ
đẹp thật, nhưng đài các văn chương quá, không “đời” như những con đường qua
ruộng gò của tôi, không gần gũi bằng những con đường của Bình-nguyên Lộc.
Còn gì nữa? Những đêm
thanh vắng, nhìn lên bầu trời tìm con gấu, con vịt, không khỏi bị Ba sao giữa giời ám ảnh. Hoặc khi uống
tách cà phê nóng, khi tình cờ thấy nét chữ ai đó giống như chữ một bạn gái thời
học sinh, lập tức Hồn ma cũ hiện lên…
Cứ như thế, ngày tháng năm
qua, vào Nam ra Bắc, lên núi xuống đồng, trong mọi ngõ ngách của làng xóm phố
phường cũng như trong mọi ngõ ngách của cuộc sống, tôi luôn luôn thấy bóng dáng
những nhân vật của Bình-nguyên Lộc, luôn luôn nghe tiếng nói của những nhân vật ấy, có khi mờ ảo nhạt nhòa
hay vang vọng mơ hồ. Có thể nghĩ là chung quanh tôi cả một không khí
Bình-nguyên Lộc bàng bạc chăng?
Tuy Hòa, tháng 8 năm 2016
TRẦN HUIỀN ÂN
THƯ MỤC THAM KHẢO
* Tác phẩm của Bình-nguyên Lộc:
Sách in:
-Nhốt Gió (NXB Hội Nhà Văn 1999) – Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (NXB Trẻ 1999) – Quán
Tai Heo (NXB Văn Xương) – Thầm Lặng
(NXB Thụy Hương 1967) – Tuyển tập Bình
Nguyên Lộc – Nguyễn Q. Thắng tuyển chọn giới thiệu), tập I, II, III, IV
(NXB Văn Học 2002)
Đọc trên trang binhnguyenloc của nhóm chủ
trương: Vinh Lan, Phan Tấn Tài, Trương Quan Sen:
Hồi ký văn nghệ : Hai thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp và Hà Thượng Nhân – Ông Bà Bút Trà – Vài
kỉ niệm viết lách với Thanh Nam – Gặp lại người xưa – Đít Chuột.
Trả lời cuộc phỏng vấn văn nghệ của Bách Khoa – Mấy bài thơ
*
Các sách khác
- Đồ Chiểu – Truyện Lục Vân Tiên . NXB Tân Việt
1968
- Hồ Hữu Tường – Thuốc trường sanh . NXB Huệ Minh 1964
- Minh Quân và 5 tác giả - Truyện ngắn giải thưởng Trung tâm Văn bút
Việt Nam 1965 – Tin Sách xb 1965
-Nguiễn Ngu Í – Khi người chết có mặt – Ngày Xanh xb 1962
- Nguiễn Ngu Í – Sống và Viết - Ngày Xanh xb 1966
- Nguyễn Q. Thắng – Văn học Việt Nam nơi miền đất mới –
NXBVăn Học 2007
- Nguyễn Thị Thu Trang – Văn xuôi đô thị Miền Nam giai đoạn 1954-1975
nhìn từ các giá trị văn hóa truyền thống – NXB Đại học Quốc gia TP.HCM –
2015
- Trần Hoài Thư sưu tầm – Văn Miền Nam – Thư Ấn quán xb 2009
- Võ Phiến – Tạp Bút – NXB Thời Mới 1967
- Võ Phiến – Văn học Miền Nam tổng quan – Tiền Vệ 1999
Các
tạp chí:
- Tạp chí Bách Khoa, các số 130, 134, 196, 197, 221, 248, 259, 167+268, 274,
297, 310, 357, 361+362, 366, 367, 370, 371, 373, 375, 376, 377, 378, 380, 384,
402+403, 525, 496, 497, 498.
- Giai phẩm Giao Điểm Xuân Nhâm Tý.
- Nguyệt san Tân Văn số 2, số 16+27.
- Nguyệt san Tin Sách: Tháng 7/1962 đến tháng 12/1962, trọn bộ năm 1963, số
43/1966.
- Tập san Thời Tập các số 3, 5, 12.
- Tạp chí Văn, số 199, số tháng 5/1974, giai phẩm Văn Xuân Nhâm Tý, Quý Sửu, Văn
chuyên san phê bình số 2/1967, số 3/1968.
Các
bài riêng lẻ:
- Bài viết về Bình-nguyên Lộc, đọc
trên “Wikipedia”
- Đặng Tiến –Từ điển văn học bộ mới – đọc trên BBC.Vietnamese
- Vinh Lan - Bài viết về tuần san Vui Sống – đọc trên “binhnguyenloc…”
[2] Bình-nguyên Lộc – Hai
thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp và Hà Thượng Nhân. Đọc trên “Bình-nguyên Lộc” của nhóm
chủ trương: Vinh Lan – Phan Tấn Tài – Trương Quan Sen
(http://www.binhnguyenloc.de)
[3] Sơn Nam: Đọc tác phẩm đầu
tay của Bình-nguyên Lộc, Thời Tập số XII ngày 10/10/1974, tr.4.
[4] Ngày sinh và ngày mất
trùng nhau: 7 tháng 3. Có thể đặt ở đây một dấu hỏi chăng?
[5] Có tư liệu ghi: Trình
Nguyên là bút danh của Bình-nguyên Lộc chỉ xuất hiện trong một truyện trên báo
Việt Thanh (1951). Chúng tôi chưa đọc truyện này. Và được biết Trinh Nguiên là
một bút danh của Nguyễn Hữu Ngư (Nguiễn Ngu Í). Không rõ có sự liên hệ nào giữa
Trình Nguyên (Bình-nguyên Lộc) và Trinh Nguiên (Nguiễn Ngu Í)?
[6] Bằng Giang: Nhận xét về cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc
V.N của ông Bình- nguyên Lộc, Tạp chí Bách Khoa số 371, ngày15/6/1972, trang
42.
[7] Nguyên Phủ, trong mục
Sinh hoạt, tạp chí Bách Khoa số 134 ngày 1/8/1962, tr. 113. - Minh Quân, trong
mục Thời sự Văn nghệ, tạp chí Bách Khoa số 310 ngày 1/12/1969 tr.82.- Thế Nhân, trong mục Sinh hoạt, tạp chí Bách
Khoa số 367 ngày 15/4/1972, tr. 75.
[8] Theo Nguiễn Ngu Í: Đến
31/5/1965 Bình-nguyên Lộc có 820 truyện ngắn, 52 tiểu thuyết, 1 tiểu thuyết bằng
thơ, 2 tập thơ, 1 tập biên khảo sưu tầm, 1 tập khảo luận Y học (soạn chung với
Bs. Tô Dương Hiệp), 3 tập chú thích phân đoạn phê bình cổ văn (soạn chung với
Nguiễn Ngu Í), 2 truyện cổ tích bằng thơ và một số truyện nhi đồng.- Theo Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia (đọc ngày 15/7/2016) Bình-nguyên Lộc có khoảng 50 tiểu
thuyết, 1.000 truyện ngắn, 3 tập thơ, 8 tác phẩm nghiên cứu, sau khi ra hải ngoại
có 5 tác phẩm và một số bài đăng báo …
[9] Sống và Viết với …,Sđd,
tr. 241, tr.242.
[10] Sống và Viết…, Sđd,
tr.234.
[11] Tạp chí Bách Khoa số 72
ngày 15.01.1960. Đọc lại trên binhnguyenloc.de.
[12] Bình-nguyên Lộc: Một thế
giới tự tạo, nguyệt san Tân Văn số 2, tháng 5 & 6 / 1968, tr.11, 120.
[13] Nguyễn Nam Anh phỏng vấn
Bình-nguyên Lộc – Tập san Văn số 199 ngày 1/4/1972 tr.2 - 12.
[14] Viên Linh – Bình-nguyên
Lộc – Nguyễn Mạnh Côn. Tay Đôi. Tập san Thời Tập số 5 năm.1974, tr. 75 – 83.
[15] Bình-nguyên Lộc. Kinh
nghiệm viết văn của tôi, tập san Thời Tập số 12 ngày 10/10/1974, tr.20 – 24.
[16] Bình-nguyên Lộc – Vài kỉ
niệm viết lách với Thanh Nam. Đọc trên binhnguyenloc.de
[17] Xóm Cầu Mới, tiểu thuyết
của Nhất Linh, đăng trên Văn Hóa Ngày Nay.
[18] Nguyễn Mộng Giác: Vui
buồn cuối năm, Bách Khoa số 402+403, ngày 10/1/1974
[19] Hồ Hữu Tường: Thuốc trường
sanh (III Vẹn nguyền), NXB Huệ Minh, 1964, các tr.113, 123, 135.
[20] Đông Hồ - Chi lan đào lý . Trong Sống và Viết . Sđd tr.189