Sàigòn,
8.1.2007
Trần Hoài Thư thân mến,
Cuối
năm, tôi quyết định viết thư cho bạn. Một tình bạn gần nửa thế kỷ gói ghém lại
trong vài dòng chữ. Tự hẹn lâu rồi, và cũng nhiều lần rồi, nhưng chẳng bao giờ
đủ bình tâm viết. Không phải vì xa cách, mà vì viết cho nhau là một dạng thức
nhìn lại mình. Nhìn lại mình, tự vấn, cũng khó khăn lắm. Bởi vì trong ta có bạn,
và trong bạn có ta. Cùng một lứa bên trời
lận đận! (Tỳ bà hành)
Đầu
tiên, xin gửi lời thăm bà Trần Hoài Thư. Vợ của Thư, cũng như vợ của những nghệ
sĩ thời chúng ta, đều mang chung một số phận, mà trong đó, nước mắt nhiều hơn nụ
cười. Chị Yến có còn nhớ một buổi trưa tháng 7 năm 1970, có chàng trung úy Thân
Trọng Minh ghé lại thư viện của viện đại học Cần Thơ, coi mắt chị, người phụ nữ
nào đủ dũng cảm để yêu và cọng nghiệp với bạn mình là anh chàng lang bạt kỳ hồ
Trần Quý Sách. Hình như lúc đó hai người chưa cưới nhau. Tôi đóng ở Phú Quốc,
bay về phi trường Bình Thủy, ăn thịt chuột ở Cái Răng (Trung tâm 4 nhập ngũ) và
thăm người vợ chưa cưới của bạn – Ôi, một thời hào sảng, một thời lãng mạn, của
những tình văn quá đổi nồng nàn, khốc liệt và tinh khiết. Bây giờ, hơn 46 năm
sau, không thể nhớ ngày ấy chị Yến như thế nào, tôi như thế nào.
Bấy
giờ, cháu Trần Quý Thoại chưa có mặt trên đời. Nhưng nửa thế kỷ sau, đã có một
bác sĩ Thoại tài hoa, làm thơ và có nét vẽ rất gần với phong cách hội họa của Lữ
Kiều (những phác thảo mực tàu).
Đọc tiếp...
Viết
lan man theo dòng hồi tưởng, bây giờ tôi muốn viết cho bạn những điều tôi nghĩ
về nhà văn Trần Hoài Thư. Thật ra, tôi định viết về Bạn như một bài nhận định về
văn chương Trần Hoài Thư, nhưng viết như vậy có nghĩa là một bài viết chính thức
cho nhiều người đọc. Quá khó. Hoặc quá mệt mỏi. Bạn biết rằng, giờ đây, tôi chỉ
còn thấy được bằng một con mắt , tôi đã hư một con mắt từ 15 năm nay, và tôi nhớ
cái kính cận thị dày cộm của Thư. Bạn là người hiểu hơn ai cả nỗi khổ tâm của
cái nhìn bị giới hạn. Tất cả bài văn viết về chiến tranh, về người lính thám
kích là Bạn đều có nhắc đến cái kính nặng độ ấy, nó làm cho Bạn nhìn thấy bom đạn
qua một làn kính khác người! Cùng với những thảm kịch, cũng qua làn kính, nhưng
là một làn kính khác, Bạn nhìn thấy vô hình hơn, nhưng cũng vô minh hơn. Đó, tôi đang bắt đầu nói về Bạn đó, Thư ạ.
Tức là tâm tình với người bạn nửa đời người, một người bạn mà tôi đã yêu mến
nhiều hơn bạn tưởng, bởi vì chúng ta quả thật rất ít gặp nhau ngoài đời, nhưng
đã gặp nhau thân thiết lâu dài trên những dòng chữ.
Còn
nhớ không Trần Hoài Thư, một đêm ở Đà Lạt năm 1973, Bạn cùng tôi đốt những điếu
thuốc Bastos xanh nói chuyện văn chương, thời hiệp định Paris về ngưng bắn.
Chúng ta tạo những đốm lửa trong đêm lạnh tại căn nhà có tên gọi là Rectorat
thuở ấy, đâu có ngờ những đốm lửa thuốc lá trong ngày cũ còn cháy mãi trong tim
tôi, trong tim Bạn cho đến bây giờ.
Tôi
đã đọc Trần Hoài Thư từ những thập niên 60. Đọc thơ. Đọc văn. Đọc truyện, đọc
Rong bút. Và lạ thay, mạch văn ấy liên tục một dòng chảy: Trần Hoài Thư thuở ấy
và bây giờ có khác gì đâu. Hay là tôi thuở ấy và tôi bây giờ không thay đổi. Ít
ra, trong văn chương.
Văn
của Trần Hoài Thư là lời tự sự viết bằng tất cả cảm tính nhạy bén của chàng thi
sĩ. Những mảng đề tài của Thư rất thật: tuổi thơ, tình yêu và sự nhập thế với
vai trò người lính trong cuộc chiến mình không có quyền chọn nhưng có quyền tồn
tại. Thời ấy, Thư viết về tuổi thơ buồn bã của mình rất cảm động, tôi không còn
nhớ hết những gì Thư đã viết về những tai ương bất hạnh đầu đời, nhưng tôi nhớ
rất rõ những trang văn viết về người mẹ tội nghiệp, về một cô gái tên Quỳnh
cùng tình yêu tuyệt vọng của Thư. Thư viết về những miền đất mình đã trôi nổi
đi qua: một thành phố Huế cổ kính, những đồi cà phê ở Ban Mê Thuột, Pleiku. Những
trang viết tự tình ấy đã làm se sắt trái tim chàng trai tuổi 20 là tôi thuở ấy.
Thư
viết bằng tâm cảnh của một người chia xẻ nỗi niềm với tri âm – dù là tri âm ấy giấu
mặt trong đám đông người đọc thuở ấy – cho nên giọng văn ấy là giọng văn tâm sự,
và giữa hai dòng chữ, hình như còn đọng lại nỗi đau đớn sắt se của Thư trong từng
hồi tưởng: hình như còn tồn tại hơi thở, mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa, của một
thời khốc liệt.
Một
buổi sáng tôi gọi điện cho Nguyên Minh, chia xẻ những cảm xúc khi đọc lại văn
Trần Hoài Thư. Tôi nói với Nguyên Minh rằng, Thư viết như thể không thể làm
khác được. Với con tim nồng nàn của mình. Thư không kềm chế được cảm xúc vì
hình như tất cả những điều Thư viết đều mang hình bóng của tác giả, cho nên đọc
Thư là đọc lời tự sự, chia với tác giả những vui buồn, tủi hận và nhẫn nhục,
cay đắng và bao dung của một chàng trai bất hạnh giữa một lịch sử bất hạnh
không kém. Tôi nói rằng tôi gần như thuộc lòng văn phong của Thư, vì có một số
con chữ của Thư lặp đi lặp lại trên những trang viết – những con chữ ấy phải nằm
trong mạch văn của Thư mới gây xúc cảm, tách ra một câu riêng rẻ, tác động văn
học của nó giảm đi. Có lẽ, trong các tác giả của thời chúng ta, câu “văn là người”
áp dụng vào trường hợp Trần Hoài Thư chính xác nhất.
Tôi
cũng nói với Nguyên Minh rằng tôi tìm ra một chi tiết này trong văn của Trần
Hoài Thư. Đó là cái kính cận 8 độ của chàng lính trinh sát đã làm vướng bận
chàng không ít, và sau làn kính ấy, có đôi mắt rất dễ dàng rơi lệ, vì mình, vì
người, vì vui cũng như buồn, vì cái ác cũng như cái thiện. Ôi, quả tim của Trần
Hoài Thư, quả tim của chàng thi sĩ bẩm sinh, một quả tim nhạy cảm trước một tiếng
chim bình minh nhưng cũng biết chai lì trước cái chết cận kề, quả tim ấy vẫn
theo chàng dù trong hoàn cảnh nào, trước biến cố 1975 hoặc sau đó.
Gần
đây, tôi tìm lại được một Trần Hoài Thư nguyên vẹn của hơn 30 năm về trước, khi
tôi đọc những bài văn mới nhất của Thư. Tôi nhớ đến truyện “Cơn mơ” của bạn,
hình như đã viết vài năm trước. Bây giờ tôi không có trước mặt để đọc lại,
nhưng tôi không thể quên câu chuyện vừa lãng mạn vừa cay đắng bạn kể về một
chàng sinh viên già đi học chung với một cô gái Việt xinh đẹp trong một lớp học
về điện toán ở New York. Cô gái ấy làm rung động chàng Trần Hoài Thư đang sống
xa quê nhà, không phải chỉ là một rung động của quả tim muộn màng, mà trong đó
chứa cả một bầu trời ký ức đau đớn của hiện tại quê người mà Thư không thỏa hiệp
được. Tôi nhớ hơi văn dồn dập, nồng nàn mà bi thiết khi Thư viết về đêm chờ năm
mới tại quảng trường “thời gian”. Và cô gái kia không thể không làm tôi nhớ tới
cô bé Quỳnh của ngày xưa tội nghiệp.
Bạn
thấy không “ta cùng giống nòi tình thương người đồng điệu” (1), nói cho cùng,
chúng ta là thế đó.
Tôi
cũng muốn chia xẻ với Bạn cảm xúc của tôi khi đọc “Hành trình của một cổ trắng”.
Đó là tự truyện của Bạn, phải thế không? Từ chuyện vượt biển, đến quê người,
khu phố da màu, nhà thờ, những người hàng xóm, người vợ chịu đựng. Rồi công việc.
Thành công. Thất bại. Và nhất là tình người. Và Bạn là một trong những nhà văn
đầu tiên đề cập đến nỗi ê chề trong công việc bạc bẽo ở Mỹ: đó là qui luật đào
thải trong một xã hội cạnh tranh. Bạn viết rất hay, nhưng tôi có cảm tưởng bạn
viết bằng tình. Tình nhiều hơn Lý. Sự sa thải nhân viên trong sở làm của bạn
đâu phải vì những chuyên viên Ấn Độ, mà đó là qui luật của cạnh tranh tư bản, tại
sao bạn trút trách móc lên họ, họ có khác chi bạn ngày bạn mới vào làm.
Thế
nhưng rốt cuộc thì cái tình bao giờ cũng thắng, và sự bao dung của Bạn ở đoạn
cuối làm tôi mừng vui vì biết rằng Bạn vẫn mang quả tim Việt Nam thời trai trẻ
để vượt qua tất cả khổ nạn. Có phải bi kịch của lịch sử đã cho chúng ta một
cách hành xử rất gần với chữ xả – buông xả
– nó giúp cho hành trang văn học của chúng ta thêm phần phong phú, nghĩa là có
tình hơn!
Tôi
cũng nhắc ở đây tập thơ “Ô cửa” của Trần Hoài Thư, một tập thơ dễ đọc cho nên
tôi đã đọc một mạch tập thơ dày cộm ấy, nó là biên niên sử cho những rung động
của bạn, và đó là những phút sự thật, như là những ô cửa mở vào cuộc đời bạn. Cuộc đời đa tài và đa đoan của bạn. Bạn
có thể cười tôi thiếu khiêm tốn, nhưng quả thật sau khi đọc xong, tôi cười một
mình và tự nhủ : Bạn làm thơ giống thơ của tôi quá. Ôi, phải chi có Thư ở cạnh,
tôi sẽ mừng Thư một ly rượu nồng, để có thể hào sảng cùng nhau đọc lên vài câu
thơ kia, vài câu thôi, ở bất cứ bài thơ nào của bạn, cũng đủ làm chất nhắm cho
dậy men ly rượu kia. Nhưng bạn cũng hiểu rằng, đôi khi ta phải rót rượu để uống
một mình, vì bạn thì vắng mặt hoặc không còn nữa. Ly rượu thì vẫn phải rót ra, dù không thể uống chén đắng ấy, nhưng bọt
rượu vẫn sủi tăm.
Thư ơi, để tạ từ tất cả những bài thơ tuổi dại
của bạn đã cho tôi sống lại tuổi dại của tôi, tôi dành tặng cho bạn một bức sơn
dầu tôi vừa vẽ xong, nhan đề: “Uống rượu một mình”.
Hình như thư viết cho bạn đã dài, nói chuyện văn chương thì không bao giờ dứt được. Nhưng tôi đã mỏi mắt lắm rồi. Đành ngừng đây.
TB. Tôi gửi lời thăm chị Yến. Bây giờ chị ra sao, có khỏe
không? Tôi cám ơn chị đã cho chúng tôi cháu Trần Quý Thoại, người đã tiếp nối
nghề và nghiệp của chúng tôi. Chúng tôi đây là những người bạn thiết của Trần
Hoài Thư vừa mang nghiệp văn chương vừa nghề y khoa, đó là Trương Thìn, Đỗ Hồng
Ngọc, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Mậu Hưng và tôi. (Và còn ai nữa, bạn của Trần Hoài
Thư mà tôi không biết). Nghề Y và nghệ thuật thật ra là một. Nói cho cùng, là một
cách sống với mình, với người.