Viên Linh (Đinh Trường Chinh vẽ)
Nhà văn, nhà thơ Viên Linh
(1938-2024) vừa ra đi. Ông tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20/1/1938 tại Hà
Nam, từ trần ngày 28/3/2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết
này để đưa tiễn nhà thơ Viên Linh, người mà tôi hân hạnh có nhiều năm thân cận
tại Quận Cam, California.
Tôi thuộc thế hệ sau nhà thơ
Viên Linh rất xa, nên những gì biết và tương tác với nhà thơ chỉ là một góc
nhìn. Tôi hân hạnh được gọi nhà thơ Viên Linh là "anh" theo thói quen
giao tiếp trong giới văn nghệ, cũng như tôi đã gọi anh Mai Thảo, anh Nhật Tiến,
anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ, chị Nhã Ca... trong những buổi gặp nhau ở
Quận Cam. Thật sự họ cách biệt tôi rất nhiều, vì họ đã hiện ra như các ngọn núi
huyền thoại của văn học Miền Nam trước 1975. Và tôi đã có cơ duyên làm người bạn
trẻ của họ. Và cũng là người viết các bản tin về họ, vì tôi phụ trách mục tin tức
trên tờ Việt Báo. Trong các bài viết hay bản tin trước giờ về Viên Linh, đôi
khi tôi gọi Viên Linh là anh, đôi khi gọi là ông. Bởi vì, nhà thơ Viên Linh
cũng là đề tài cho các bản tin. Thí dụ, tôi viết tin khi anh tái xuất bản Tạp
Chí Khởi Hành, và tôi đã viết một cách vui mừng. Tôi cũng viết tin về Viên Linh
khi ông hoạt động Trung Tâm Văn Bút, và những lúc đó tôi đã viết một các lo ngại,
vì tôi biết anh tốn tiền và tốn công sức, mất thì giờ rất nhiều cho các hoạt động
bên lề văn học.
Nhà thơ Viên Lính có văn tài
từ khi còn trẻ. Tiểu sử chính thức ghi rằng, từ năm 1950, ông sống tại Hà Nội.
Tác phẩm đầu tiên ông được trả nhuận bút viết năm 14 tuổi, đăng trên Nhật báo
Tiếng Dân Hà Nội. Ông rời Hà Nội ra Hải Phòng vào Sài Gòn đêm 25/12/1954. Viên
Linh lớn lên và trưởng thành tại Sài Gòn. Sống bằng nghề cầm bút từ 1962, là Tổng
thư ký Tòa soạn nhiều tuần báo chuyên về văn học nghệ thuật như Kịch Ảnh, Nghệ
Thuật, Khởi Hành, Hồng, Thời Tập, Dân Ta … Là thư ký Tòa soạn Nhật báo Tiền Tuyến
của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị trong hơn 6 năm thi hành nghĩa vụ quân dịch,
với các chủ nhiệm Lê Đình Thạch, Hà Thượng Nhân. Giải ngũ năm 1972.
Viên Linh là tác giả của hơn
hai mươi cuốn sách trước 1975. Giải nhất Giải Văn chương Toàn quốc VNCH năm
1974 với tác phẩm Gió Thấp. Từ tháng 8 năm 1975, ông định cư tại Mỹ. Ông tiếp tục
làm Chủ nhiệm Chủ bút nguyệt san Khởi Hành, Chủ Tịch Văn Bút Hải Ngoại
1991-1995.
Khi mới định cư sang Hoa Kỳ
sau 1975, nhà thơ Viên Linh cư ngụ ở tiểu bang Virginia. Thế rồi, anh bay sang
California. Trong giao tiếp tại Quận Cam, nơi thường được gọi là thủ đô người
Việt tỵ nạn hải ngoại, nhà thơ Viên Linh có nhiều giao tình trong giới văn nghệ
sĩ, có khi thuận thảo, có khi bất trắc, có khi anh nói nhỏ nhẹ, có khi anh to
tiếng, có khi anh dịu dàng hỏi chuyện về Phật giáo hay quê nhà, có khi anh gật
gù trước các bài thơ hay các truyện ngắn lạ, có khi anh chê cách sử dụng chữ
nghĩa nào đó. Nhìn lại, trong những người ở Quận Cam có giao tiếp với nhà thơ
Viên Linh, tương tác hay nhìn thấy một phần cuộc đời của Viên Linh, tôi nhớ ra
là có Mai Thảo, Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Dạ Từ, Nhã
Ca, Đỗ Ngọc Yến, ca sĩ Thùy Hạnh, Trịnh Y Thư, Lê Giang Trần, nhà văn Nguyễn Tà
Cúc, Nguyễn Lương Vỵ, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh... Đó là trong giới cầm bút,
theo tôi nhớ. Trong những người vừa nêu tên đó, chỉ trừ những người đã quá cố,
nếu mỗi người kể lại một phần đời Viên Linh mà họ biết, chúng ta sẽ có một nhà
thơ Viên Linh đầy màu sắc, sinh động, lúc gầm gừ như biển động và lúc dịu dàng
như làn gió mùa xuân.
Lẽ ra, các nhà thơ chỉ nên
làm thơ, và nhà văn chỉ nên ngồi viết văn. Xã hội lẽ ra đừng bao giờ để cho các
nhà thơ, nhà văn mất thì giờ mưu sinh. Cũng không nên để họ mất thì giờ cho các
hội văn bút này nọ. Cho nên, những năm cuối đời, anh Viên Linh mới thực sự vui,
khi anh đủ tuổi về hưu và toàn tâm, toàn lực làm tờ Khởi Hành. Dĩ nhiên, ai
cũng biết rằng tờ báo văn học không thể nào là nguồn tiền được. Ít nhất, cũng
là nơi để tìm tới nhau. Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ từng nói với tôi rằng, khi Vỵ
ra hải ngoại định cư thì nghĩ ngay tới Khởi Hành và Viên Linh. Thực sự, Khởi
Hành không ổn định. Có lúc, tòa soạn Khởi Hành đặt sau một văn phòng nha sĩ
trên đường Bolsa, bây giờ là vòng bên hông tiệm sữa đậu nành Đông Phương Tofu
và phía sau tiệm bánh mì Gala. Lúc đó, anh Viên Linh nhờ tôi chỉ vài điểm kỹ
thuật. Tôi gài bộ chữ VNI vào máy tính của anh (thời đó, chưa có font chữ
Unicode), gài nhu liệu Ventura và hướng dẫn sơ sơ về cách dàn trang. Một lần,
khuya cỡ 10 giờ khuya, anh Viên Linh gọi tôi tới sửa khẩn cấp trục trặc gì
trong máy tính. Tôi lái xe tới giúp. Thời đó, khuya cỡ đó, đường Bolsa vắng
hoe, chứ không nhiều xe và đông người như bây giờ.
Nhà thơ Viên Linh có thói
quen sống kín đáo. Anh không ưa tâm sự gì, ngay cả khi có rủ nhau ra quán ăn uống.
Nghĩa là, anh không nói gì về chuyện vợ con, dù rằng anh biết tôi không ưa kể
chuyện người khác. Hiển nhiên, cuộc đời anh quá phức tạp để có thể tâm sự. Có một
lần, vì cớ gì đó, có thể là hư xe hay gì đó, anh nhờ tôi chở về nhà: anh nói rằng
lúc đó anh đang ở thị trấn Long Beach, cách trung tâm Little Saigon khoảng 30
phút. Tôi chở anh tới Long Beach, rồi anh bảo thả anh nơi một góc phố để anh đi
bộ về. Nghĩa là, anh không muốn cho tôi biết anh đang ở đâu và ở với ai.
Thỉnh thoảng trong khi nói
chuyện, anh kể vài kỷ niệm với các nhà sư, trong đó có Thầy Nhất Hạnh và Thầy
Tuệ Sỹ. Nghĩa là, hai nhà thơ tình cờ là tu sĩ Phật Giáo. Nếu họ không phải nhà
thơ, hẳn là anh Viên Linh không có giao tình, vì anh kỹ tính, không ưa la cà.
Một lần, tôi nói với anh
Viên Linh, rằng tôi vẫn nhớ trong báo Thời Tập hay Khởi Hành của anh, thời tôi
còn là học sinh hay sinh viên, từng đọc một bài thơ của Cao Huy Khanh, trong đó
có những hình ảnh không quên được. Nhiều thập niên sau, ra hải ngoại, phải tìm
đọc lại, trong đó có những câu:
Em học trò sao hôm nay em
không đi học?Nghe con dế gáy sao em
thương cái góc nhà.Ngoài kia có người nào mới
thở dàiBây giờ đã hoàng hôn hay chỉ
mới sớm mai. Em học trò sao hôm nay em
không đi học?Những ảo mộng nào em không
nói cho ai nghe.Có người tử trận ngoài biên
giớiCó người nằm ngủ trên hè phố
đêm nay Tôi nói với anh Viên Linh rằng
tôi bị bài thơ này ám ảnh đặc biệt. Cái cảm giác khi ngồi ở Sài Gòn, cầm trang
báo, đọc bài thơ trên, cho thấy hình như không khí chiến tranh đang ở nơi xa,
đâu đó ở quê nhà. Anh Viên Linh nói rằng Cao Huy Khanh nổi bật là về lý luận
văn học (chuyện này thì tôi mù mờ, phần vì không đọc nhiều, phần vì sợ lý luận).
Về sau, khoảng tháng 11 năm
2015, Viên Linh viết một bài trên báo Người Việt, nhan đề "Văn xuôi miền
Nam từ chia cắt 1954 tới ngưng bắn 1973" trong đó có phần nói về nhà thơ họ
Cao mà tôi ái mộ từ thuở còn đi học:
"Còn nhớ mơ hồ, khi
Cao Huy Khanh, tên thật là Vĩnh, đến gặp tôi tại tòa soạn tuần báo Khởi Hành,
khi tôi đang là thư ký tòa soạn, anh đưa tôi một xấp bài viết tay, khá dầy, dầy
khoảng trăm trang giấy viết một mặt, đó là phần đầu của loạt bài “Sơ thảo 15
năm văn xuôi miền Nam.” Anh đến một mình, tự giới thiệu là đã tốt nghiệp Ðại Học
Sư Phạm, hiện là giáo sư Trung Học Vĩnh Long. Anh vừa đúng 22 tuổi. Lúc ấy
quanh tôi có ít ra là bốn người bạn vừa viết biên khảo, văn học cũng như triết
học, vừa viết phê bình sách, vừa dạy học đó là Nguyễn Nhật Duật – giáo sư Quốc
văn, Nguyễn Hữu Hiệu, Trưởng ban Tu thư Ðại học Vạn Hạnh dịch giả, Lê Huy Oanh
– nhà văn dịch giả, Huỳnh Phan Anh – giáo sư Triết Nguyễn Trãi, nhà viết tiểu
luận… nhưng không một ai viết loại dài hơi và nghiêng về biên khảo văn học sử
như Cao Huy Khanh. Tôi nhận sẽ đăng, nhưng phải chờ khoảng một tháng để tôi sửa
soạn một loạt bài song song, là loạt “tác giả viết về tác giả,” như đã viết ở
trên. Từ khi bài đăng lên, Cao Huy Khanh một sáng một chiều trở thành nhà biên
khảo văn học sử miền Nam. Và sự nghiệp ấy tạm thời đã ngưng lại khi ta mất miền
Nam. Tôi hy vọng sự nghiệp ấy sẽ tiếp tục một ngày không xa." (ngưng
trích)
Như thế, qua anh Viên Linh,
tôi học được nhiều về văn học Việt Nam. Dĩ nhiên, tôi đọc anh theo kiểu chọn lọc.
Những gì anh, hay Ban biên tập Khởi Hành sau này, viết có đụng chạm tới một số
nhà văn, nhà thơ thì tôi rất dè dặt. Họ đều là những tượng đài trong tôi.
Anh Viên Linh là một người
yêu nước nồng nàn. Trong cương vị văn nghệ sĩ, anh hoạt động Trung Tâm Văn Bút
(chuyện này thì tôi xin tránh nói, vì về sau, nội bộ này tranh cãi nhiều quá).
Tạp Chí Khởi Hành ra đời, bên cạnh say mê văn học, cũng là từ tấm lòng yêu nước
cùa Viên Linh.
Vào tháng 3/2000, trong dịp
kỷ niệm 3 năm ngày Tạp Chí Khởi Hành, trong hình thức nguyệt san, ra mắt độc giả,
trong bữa tiếp tân với khoảng 100 văn nghệ sĩ tại một nhà hàng ở thị trấn
Westminster, Quận Cam, nhà thơ Viên Linh giải thích rằng anh đã đứng ra làm lại
tờ Khởi Hành do sự khuyến khích của nhiều văn hữu, tờ báo hiện nay nặng về phần
văn học nghệ thuật cũng như phát hiện tài năng mới trong giới cầm bút.
Trước khi mọi người ra về,
Ban biên tập Khởi Hành tặng mỗi vị khách một tấm bản đồ Việt Nam, nguyên bản in
ở Tây Ban Nha năm 1789, bản in lại năm 1838, hình thể bản đồ Việt Nam hình chữ
S bao gồm cả đảo Hoàng Sa mà chữ dịch là Cát Vàng. Lúc đó, gần thời điểm 26 năm
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam (Trận hải chiến Hoàng Sa nổ vào ngày
19/1/1974). Theo tôi nhớ, không có tờ báo hay tạp chí hải ngoại nào in bản đồ
Việt Nam với Hoàng Sa để tặng cả trăm bản như thế.
Đôi khi, có lúc bạn sẽ nghe
kể rằng hai nhà văn Mai Thảo và Viên Linh có lúc bực dọc nhau, to tiếng nhau.
Nhà thơ Trịnh Y Thư có chứng kiến một lần như thế. Nhưng tấm lòng hai anh giao
tiếp khi bình tâm vẫn rất là trân trọng với nhau.
Tạp chí Văn của anh Mai Thảo,
số 26, có đăng bài thơ "Ẩn Mật" của Viên Linh sáng tác trong tháng
3-4/1984. Bài thơ này là Viên Linh đề tặng Mai Thảo, dài 12 đoạn, mỗi đoạn có độ
dài bất định, có đoạn dài 2 dòng (Đoạn XI), có đoạn 4 dòng (Đoạn VIII), có đoạn
dài 24 dòng (Đoạn XII). Kỳ lạ, những bài thơ hay của Viên Linh đều sáng tác vào
thời điểm tháng 4 mỗi năm, phải chăng đó là những tháng 4 rất mực của lòng anh,
trích đoạn III:
Tháng Tư hoa máu rụng bời bờiBiển ngoài đất nhớKiếp kiếp chờ mongEm khép mắt tối bừng chấn
song tù ngục Cũng trong bài thơ "Ẩn
Mật" những hình ảnh Phật giáo hiển lộ trong thơ Viên Linh đẹp rực rỡ. Và
cũng nặng nghiệp văn nghệ. Trích từ bài thơ này, đoạn IV dài 14 dòng như sau: IVChẳng phải hồn tăng lữNgờm ngợp mái vô thườngRượu uống như nước lãLòng tịnh tựa thu sươngYêu em u uất trăm năm chậmĐêm gửi tình đau qua đại
dươngHỡi ơi hoang phế miếu đườngLòng son như ngói âm dương
tan tànhYêu người mái tóc còn xanhTrong đôi mắt mộng còn anh đợi
chờChín năm rồi chín năm quaEm ơi có nhớ Đạt Ma ngồi thiềnTịnh tâm. Bẻ gối. Tìm quênMột hôm bích nhãn lên thuyền
về Đông. Nhà văn Võ Phiến, trong tác phẩm
"Văn Học Miền Nam: Thơ" do nhá xuất bản Văn Nghệ ấn hành (có lẽ khoảng
các năm 1990s) ghi nhận về thơ Viên Linh, trích như sau:
"Ở Viên Linh còn một điều
không thể bỏ qua, là cái mưa. Có thể nói mưa tuôn liên miên trong cả thơ Viên
Linh lẫn cuộc đời Viên Linh.
Mưa xa cách:
Cơn mưa chia biệt tháng ngàyVẫn rơi tầm tã lòng này đêm
đêm.(‘Lầu chuông’) Mưa suốt từ thuở ấu thơ đến
giờ:Lá vàng cọng uá trên câyĐời mưa tự những vừng mây
thiếu thời.(‘Tâm ảnh’) Mưa dưới... âm ty (!):
Chiều nay mưa dưới âm tyTa nghe kiếp trước thầm thì
hỏi han.(‘Thơ bệnh’) Mưa trên các cuộc tình:
Nhớ em rồi Cúc Hoa xưaĐêm nay dưới ngói trời mưa tầm
tầm.(‘Đêm trường’) Trong thi ca xưa nay vẫn có
mưa, thường là mưa vừa đủ nhẹ để gây mơ, để nên thơ, đủ làm mờ chân trời, đủ dấy
lên nỗi nhớ nhung man mác v.v... Trong thơ Viên Linh thì không thế. Đây là mưa
tầm mưa tã, mưa xối mưa xả. Mưa làm chìm ngập hết những ảo tưởng của nhân thế.
Cái mưa như thế mà xối xuống những cuộc tình duyên thì... ôi thôi! Trong thơ
Viên Linh không hề có thứ ái tình hồn nhiên tươi sáng như trong Nguyễn Nhược
Pháp, đã đành. Cũng không có tình thơ tình mộng như ở Lưu Trọng Lư, không có thứ
tình nồng nàn cuồng nhiệt như ở Xuân Diệu, không phải thứ tình cay đắng đầy uất
hận của Vũ Hoàng Chương. Thậm chí nó cũng không thất bại một cách lãng mạn, văn
vẻ như trong thơ Nguyễn Bính.
Ở thơ Viên Linh, ái tình
trong mưa là những cuộc tình duyên khó khăn, trắc trở, ngang trái. Những cuộc
tình duyên mệt mỏi và hẩm hiu. Những gần gũi nặng trĩu ưu tư, chất chứa ẩn ức kỳ
bí. Trong các mối tình ấy, mưa cứ triền miên như sự đeo đuổi của số kiếp nghiệt
ngã."(ngưng trích)
Tấm lòng của Viên Linh đặc
biệt trân trọng với Thầy Tuệ Sỹ, nhà sư mà anh gọi là Đông Tà (một nhân vật
trong truyện kiếm hiệp Kim Dung). Trong bài "Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê
Nhà" đăng vào Khởi Hành tháng 5/1999 (cũng là một thời điểm gần với tháng
4), nhà thơ Viên Linh kể lại ký ức về Thầy Tuệ Sỹ, nhà sư đã xuất hiện y hệt
như một huyền thoại trong lịch sử Việt Nam và đã sống một đời trang nghiêm cõi
Phật y hệt như một phẩm trong Kinh Hoa Nghiêm. Viên Linh viết, trích:
"Trong các nhà tu hành
trẻ tuổi hồi thập niên ’70, khuôn mặt của Tuệ Sỹ, vóc dáng của một hiền giả,
nhìn vào, nói tới, là nhìn vào, nói tới một tinh thần, một phong cách xán lạn.
Hồi ấy, ảnh hưởng truyện kiếm hiệp Kim Dung còn mạnh, Võ Lâm Ngũ Bá từ Anh Hùng
Xạ Điêu thấy xuất hiện ngoài đời. Những phụ nữ tác xác được gọi là Kim Bà Bà,
ghen tuông lườm nguýt thành Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, đào hoa vợ nọ con kia
thành Đoàn Chính Thuần. Ngốc Tử gặp may thành Đoàn Dự. Hèn hạ nịnh nọt len vào
chốn cao sang thành Vi Tiểu Bảo. Năm vị anh hùng trấn võ lâm, đem vào gia phả Vạn
Hạnh, có Trung Thần Thông Vương Trùng Dương Thượng Tọa Minh Châu, Viện trưởng;
Bắc Cái Hồng Thất Công Bùi Giáng; Nam Đế Ngô Trọng Anh; Tây Độc Phạm Công Thiện,
và Đông Tà Tuệ Sỹ.
Những lần lui tới Vạn Hạnh,
tôi tiếp xúc với hầu hết chư vị tăng ni ở đây, người nào trong mắt nhìn của một
ký giả, tôi cũng có thể đùa rỡn, ngoại trừ Đông Tà. Trong Ngũ bá Vạn Hạnh, tôi
kính trọng thầy Minh Châu, anh Ngô Trọng Anh, giao du với Tây Độc Phạm Công Thiện,
nhưng với Đông Tà Tuệ Sỹ, lòng tôi cứ trùng xuống, nói năng nhẹ đi, và cái nhìn
của tôi không còn sắc cạnh nữa. Đi tu như Sân Đại đức, tôi dư sức thành chánh
quả. Hành thiền như Si phương trượng, tôi không có hạnh Bồ tát, song cũng không
hèn mà không trụ trì nổi một cảnh chùa nhỏ ven sông. Tuệ Sỹ vượt lên trên những
tăng chúng thường gặp. Con người ấy là con người thật, và còn vượt hơn cả cái
thật của con người. Con người ấy, tuy vậy, một lần giận tôi, ngồi mãi ở Tòa soạn
Thời Tập mà nói, chỉ vì tôi đã đăng một bài thơ anh dịch chưa xong, mà coi như
xong rồi.
Lúc ấy, cùng với các anh Đỗ
Khánh Hoan, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Cao Huy Khanh, Lê Tài Điển, và
Trùng Dương, Tuệ Sỹ đứng trong bộ Biên Tập của Thời Tập, hậu thân của Khởi Hành
các năm trước." (ngưng trích)
Thầy Tuệ Sỹ, trong bài viết
"Lục Bát Viên Linh" năm 2010, đã kết thúc một bài rất dài, bằng một
câu kết, y hệt như một vòng hoa tặng cho Viên Linh, nơi đây, thơ của Viên Linh,
dưới mắt nhìn của Thầy Tuệ Sỹ thực sự là những sử tính huyền sử được xóa mờ để
viết lại thành lịch sử. Thầy Tuệ Sỹ viết:
"Thơ – thơ của anh.
Và của những người cùng thế hệ của anh, vẫn là một góc nhìn, để từ đó ta nhìn
vào thế giới, mà sử tính huyền sử bị xóa mờ để được viết lại thành lịch sử."
Trong cương vị một người cầm
bút hậu sinh, tôi xin phép mượn lời bình trên của Thầy Tuệ Sỹ để trân trọng từ
biệt nhà thơ Viên Linh, người để lại những trang thơ mà chữ đã hóa thân để trở
thành một phần lịch sử quê nhà.Phan Tấn Hải, tháng 4/2024.
PHOTO 1:
Là một trong ba đoàn thể đứng
tổ chức đón tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma tới thăm cộng đồng Việt Nam tại California.
Viên Linh đang phát biểu chào mừng vị Cựu Quốc trưởng Tây Tạng tại Hội trường
Kim Tự Tháp, Đại học Long Beach, California, trước 7000 Phật tử tham dự, ngày
7-6-1997.
PHOTO 2:
Từ trái: Viên Linh, Mai Thảo