Có ai nghĩ tiếng Việt mình lại tinh tế đến vậy. Cơm là thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt. Vì thế nói bữa cơm tức là bữa ăn đó thôi. Nhưng, nếu nói vợ chồng nó cãi nhau như cơm bữa thì ý nghĩa là đó là chuyện thường xảy ra, chẳng có gì lạ. Từ chuyện cơm mà suy rộng ra, biết đâu còn lắm chuyện để nói.
Trong văn hoá ẩm thực của người Việt, mâm cơm gia đình thể hiện tình cảm và sự gắn bó giữa các thành viên, chứa đựng nhiều ý nghĩa và giá trị sâu xa về sự sum họp hạnh phúc. Phải chăng vì lẽ đó mà trong đời sồng hằng ngày, người Việt thường nhắc đến từ “ cơm “, rồi dần dà đưa vào thành ngữ, và cả ca dao tục ngữ nữa. Tất cả phản ánh cuộc sống vật chất và cách ứng xử, những bài học về đối nhân xử thế.
Ăn cơm chùa không cần phải
lên chùa, đó chỉ là cách nói chỉ việc ăn khỏi trả tiền.
Cơm chim khiến liên tưởng tới việc con chim mổ từng hạt nên cơm chim khá ít. Kẻ ăn cướp cơm chim là kẻ trắng trợn ăn cướp những thứ nhỏ nhặt của những người không có khả năng tự vệ.
Cơm thường ăn với canh nhưng
nước mắt chan cơm chỉ nỗi đau tột cùng của con người, ngồi ăn mà nước mắt đầm
đìa. Nhưng dù có thế nào thì cũng đừng bỏ cơm, lúc ấy người nhà chỉ còn biết
cúng cơm thôi. Mà cũng đừng ăn cơm chúa, múa tối ngày.
Khổ cực đành phải ăn
cơm thừa canh cặn, mơ gì đến cơm vàng cơm bạc như trong truyện Tấm Cám.
Cũng có lúc phải chịu cảnh
cơm hàng cháo chợ.
Dặn dò nhau liệu cơm gắp mắm, ăn xem nồi, ngồi xem hướng, đừng có ăn cháo đá bát, nhất là đừng biến thành những kẻ giá áo túi cơm. Dặn riêng các bạn trẻ, yêu nhau đến mấy cũng đừng ăn cơm trước kẻng. Và cũng đừng Ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng. Mà nhớ đừng: Ăn cơm mới nói chuyện cũ.
Nấu cơm là việc thường ngày nhưng nhớ cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời. Cơm sôi nhỏ lửa, mấy đời cơm khê. Cơm sôi nhỏ lửa thì ngon, Cháo sôi to lửa thì còn nồi không.
Và cũng đừng quên Cơm sống vì nồi, không sống vì vung, Cơm sống tại nồi, cơm sôi tại lửa. Cơm vừa sống vừa khê cũng không sao vì Cơm này vừa sống vừa khê, Vợ đơm chồng nếm chẳng chê cơm nào. Cũng có lúc Cơm khê là cơm thảo, Cơm nhão là cơm hà tiện.
Nấu cơm là việc thường ngày, đừng để bị chê: Đàn bà chẳng phải đàn bà, Thổi cơm cơm khét, muối cà cà chua. Và cũng nên nhớ Giúp lời không ai giúp của, Giúp đũa không ai giúp cơm. Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng, Hơi đâu mà giận người dưng thêm phiền.
Theo kinh nghiệm thì Cơm nhà ăn ngon, con nhà dễ khiến, Ba bà bốn truyện, kể chuyện nàng dâu. Cơm hẩm ăn với rau dưa, Quan họ làm khách em chưa vừa lòng. Cơm no thì chớ gội đầu, Đói thì chớ có tắm lâu tật nguyền. Mà suy cho cùng thì Giàu cơm ba bữa, Khổ cũng đỏ lửa ba lần. Cơm ba bữa, áo ba manh, đói chẳng xanh, rét chẳng chết. Bữa cơm chẳng cần cao lương mỹ vị gì vì Cơm cà là nhà có phúc. Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon. Cá rô canh cải chấm gừng, Không ăn thì chớ xin đừng mỉa mai. Khuyên chàng đừng ở đơn sai, Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng. Vì yêu nên không ngại: Thương chồng nấu cháo le le,Nấu canh bông bí, nấu chè hột sen. Trông cho rau muống mau xanh, Để em cắt nấu chén canh mặn mà, Nhà em không vịt không gà, Chỉ có dưa muối, đậu cà đãi anh. Anh nói em cũng nghe anh, Bát cơm đã trót chan canh mất rồi. Nuốt đi đắng lắm anh ơi, Bỏ ra thì để tội trời ai mang. Đói lòng ăn đọt chà là, Để cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa.
Vậy mà Đàn ông đều thích ăn quà, Ăn quà xong lại về nhà ăn cơm. Nhai cơm như thể nhai rơm, Cho nên cứ phải vừa cơm vừa quà. Nói đến cơm là nghĩ ngay đến việc cày ruộng: Cơm ăn một bát sao no, Ruộng cày một lượt sao cho đành lòng. Sâu cấy lúa, cạn gieo bông, Chẳng ương được đỗ thì trồng ngô khoai.
Bữa cơm phải có món này món khác, hãy nghe lời dặn dò: Ăn cơm có canh, tu hành có vãi. Ăn cơm với rau phải ngắm sau ngắm trước. Ngược lại Ăn cơm không rau như đám ma nhà giàu không có nhạc. Ăn cơm không rau như đánh nhau không người gỡ. Ăn cơm không rau như đau không thuốc.
Gạo thì nấu cơm còn nếp nấu xôi. Thấy nếp thì lại thèm xôi. Ngồi bên thúng gạo nhớ nồi cơm thơm. Hai tay xới xới đơm đơm, Công ai cày cấy sớm hôm đó mà.
Cơm, bữa cơm, ăn uống tràn ngập trong tục ngữ ca dao vậy đó. Nhưng chưa hết đâu. Kho tàng truyện cổ dân gian cũng có nhiều truyện nhắc đến cơm.
Trước tiên là Cơm Thạch Sanh. Truyện về Thạch Sanh Lý Thông dài lắm. Đại khái Thạch Sanh là con vợ chồng bác tiều phu hiếm muộn, do Ngọc Hoàng cho thái tử xuống đầu thai. Năm Thạch Sanh 13 tuổi, Ngọc Hoàng sai người xuống dạy cho Thạch Sanh võ nghệ và nhiều phép thần thông biến hoá. Nhờ đó mà Thạch Sanh giết được con trăn tinh, rồi sau đó lại giết con đại bàng. Thạch Sanh được tặng một cây đàn và một niêu cơm. Sau nhiều gian truân, bị hãm hại, Thạch Sanh được nhà vua gả con gái cho. Nghe tin này, chư hầu 18 nước láng giềng oán hận, họp nhau lại kéo đến kinh thành quấy phá. Nhà vua bối rối. Thạch Sanh mang niêu cơm ra tuyên bố: Nếu các ngươi ăn hết niêu cơm thì ta sẽ giao công chúa. Quân binh thấy niêu cơm nhỏ xíu liền cười khinh bỉ. Nào ngờ quân binh ăn mãi không hết, niêu cơm cứ vơi lại đầy. Trong lúc đó, Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn nỉ non ai oán, quân binh không còn ý chí chiến đấu nữa, bỏ về nước cả. Nói cơm Thạch Sanh là nhắc lại chuyện này.
Nhà Phật lại có chuyện bát cơm biến thành lửa của Mục Kiền Liên, một vị tỳ kheo trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế. Mẹ của Mục Kiền Liên là bà Thanh Đề, lúc còn sống chẳng những không tin Tam Bảo lại còn phỉ báng. Bởi vậy khi chết bà bị đoạ xuống địa ngục. Mục Kiền Liên biết rằng mẹ mình xuống địa ngục sẽ khổ. Ông bèn dùng phép thần thông mang xuống cho mẹ một bát cơm đầy. Bà Thanh Đề vội vàng bưng lấy bát cơm nhưng do lòng tham, bà dành ăn một mình. Nhưng khi đưa cơm lên miệng thì cơm biến thành ngọn lửa đỏ rực. Mục Kiền Liên trở về thưa với Đức Phật và được khuyên là vào ngày rằm tháng bảy hãy lập lễ vu lan bồn. Mục Kiền Liên nghe lời, ông thực hiện việc này và ngày hôm đó mẹ của ông được cứu vớt. Mục Kiền Liên khuyến khích chúng sinh vào ngày rằm tháng bảy tổ chức lễ vu lan bồn để báo hiếu cha mẹ.
Truyện cổ dân gian còn có chuyện bát cơm Phiếu Mẫu. Thời nhà Tần ( thế kỷ thứ hai trước Công nguyên ), có cậu bé tên là Hàn Tín mồ côi cha mẹ, tuổi thơ cơ cực, sống bằng nghề câu cá, có khi cả tuần không câu được con nào. Tuy vậy, Hàn Tín vẫn mê đèn sách, nghiên cứu binh thư nên lúc nào cũng đeo kiếm như con nhà võ. Một hôm có kẻ bán thịt ngoài chợ tên là Ác Thiểu đón đường làm nhục. Nhà ngươi đeo kiếm, có dám chém ta không, nếu không hãy chui qua háng ta thì ta tha cho. Hàn Tín không do dự, thản nhiên chui qua háng hắn trong sự chê cười của mọi người. Xóm chợ này có bà già tên là Phiếu Mẫu kiếm ăn bằng cách giặt đồ thuê. Tuy cũng thiếu trước hụt sau nhưng thấy tình trạng cậu bé Hàn Tín bà vẫn chia cơm cho cậu ăn cùng. Những lần Hàn Tín ngượng không dám đến chỗ bà thì bà cho người đem cơm đến đặt trước lều của Hàn Tín. Người trong xóm biết chuyện gọi đó là bát cơm Phiếu Mẫu. Về sau, Hàn Tín phò tá Lưu Bang, lập nên cơ nghiệp thống nhất thiên hạ. Ông được phong tước hầu, trở về quê cũ cai trị. Ông liền cho người đi tìm bà Phiếu Mẫu và tên bán thịt Ác Thiểu. Hàn Tín sai người lấy một ngàn lạng vàng đem thưởng cho bà Phiếu Mẫu. Còn tên bán thịt thì lo sợ, chỉ xin tha tội chết. Thế nhưng Hàn Tín vẫn rộng lòng tha thứ, ban cho hắn một chức quan nhỏ.
Vậy là từ chuyện bữa cơm và cơm bữa, ta đã nhắc lại đủ thứ chuyện đông tây kim cổ. Đã đến lúc trở về, tĩnh lặng trong ngôi nhà quen thuộc, nấu nồi cơm và chờ nghe tiếng cơm sôi. Đi đâu rồi cũng trở về vì tiếng cơm sôi đó. Thôi về nhà cùng Phạm Hữu Quang ngâm lên hai câu sau đây cho đỡ nhớ: