Thích Tuệ Sỹ
LỤC BÁT VIÊN LINH
Từ thuở bình
minh ấy, khi Biển Đông vừa tàn cuộc khói sương, những đợt sóng vỗ bờ, xô nắng
mai lên bãi cát, ghi dấu phế hưng của một thời lãng mạn bi hùng; có đoàn người
lần theo duyên hải, định hướng chân trời, đâu là phương sinh nhai cho tròn cõi
nhân sinh. Không biết tự bao giờ, là thiên mệnh, hay là huyền sử, tôi đọc thơ
và yêu thơ từ những chuyện lãng du. Người đi, từng bước để lại phương trời quá
khứ, ghi vết tích trên từng dấu chân, để rồi sóng biển xóa nhòa. Ký ức thành mộng
tưởng.
Khi
mà ký ức còn bị vùi lấp trong những lớp bụi mù phố thị, eo xèo tiếng vọng từ hí
trường giả dối, lải nhải trên những giá trị phù hoa; ngôn ngữ nguyên sơ, tiếng
khóc từ khi lọt lòng Mẹ, chỉ là âm vang của ma quỷ tranh nhau trong bóng tối.
Ta hay người, bỗng chốc lạc loài trong lòng đất Mẹ. Chợt đồng vọng tiếng ru đâu
đó, giai điệu u trầm ấp ủ đàn con từ những ngày dựng nước. Đàn con ra đi theo
những lớp phong ba của lịch sử quay cuồng, anh em như những người khách lạ,
nhìn nhau mà không biết ai đến từ phương nào. Hình đã đổi khác, mà tâm tư cũng
thành cách biệt. Chợt nhận ra một nửa hồn mình khi nghe tiếng khóc của người.
Tôi
đi tìm tiếng khóc còn hồn nhiên, để nghe truyện kể bắt đầu từ những hạt mưa
trên đỉnh Trường Sơn, đổ xuống bình nguyên mà vào Đông Hải. Tiếng khóc chào đời
hồn nhiên, bởi tình yêu của Mẹ trong điệu ru sáu tám. Một mai, tiếng khóc trong
cõi nhân sinh nhuộm máu quân thù để viết thiên lịch sử quan phương, để xóa nhòa
huyền sử, thì trong nguyên ngôn, trong tiếng khóc ban đầu, vẫn là khúc hòa âm
của huyền sử được viết bằng thơ. Nghe huyền sử, được kể bằng thơ, để yêu mình
và yêu người, để còn nghe đồng vọng tình yêu của Mẹ, từ lòng Đất Mẹ. Mai sau dù
có bao giờ… Mai sau, khi ta đi đến cuối, hay gần đến cuối, những đoạn đương khổ
lụy lưu đầy trong cõi nhân sinh này, đã đơn độc giữa toàn anh em mà như khách
lạ này, lúc ấy biết đâu ta cũng tình cờ muốn nhẩm đọc những câu thơ như vầy:
Lời
thơ như nửa hận, nửa yêu. Yêu và hận, từ một chân tình diệu vợi:
Buồn
vui, yêu hận, loanh quanh trong một kiếp người, của một đời lãng tử, lênh đênh
qua mấy ngọn hải triều, để nghe trong ta, một thời xa xưa, Lưu Nguyễn lạc lối
đào nguyên mà vẫn mơ màng phố thị, hành trang chỉ là một gói hoài niệm trong
bóng điện đường, những chuyến xe đò khuya tạnh:
Đâu
đây, nghe như truyền thuyết của một cuộc lữ hành bất định và bất tận. Từ đó ta
nghe da diết một vần thơ, điệu ru huyền sử, huyền thoại về những người con theo
Mẹ lên rừng và theo Cha xuống biển:
Thế giới thơ-cõi thơ, và thế giới thực của người làm thơ,
không là một, và cũng không là hai. Buồn vui với chính mình, với tình đời và
tình người, người làm thơ trong khoảnh khắc tan biến vào một thế giới hoang
liêu. Đêm dài với ngọn đèn lu; ánh điện đường với bến xe trống vắng. Có thể là
như thế. Chỉ trong khoảnh khắc chìm đắm, và tan biến. Tan biến trong thơ để
tính thể tồn tại của ta phơi bày như lãng tử bị ném vào một cuộc lãng du không
định hướng. Rồi tan biến trong đám người trong các ngõ hẻm, trên hè phố, để vật
lộn với nhân sinh, khắc khoải với ngày mai tồn tại hay không tồn tại với những
lợi hay hại, đắc hay thất, vinh hay nhục, với những viên đạn lạc loài, với
những mảnh vỡ bom, mìn, bên vệ đường, trên đê ruộng
Anh,
trong thế giới hiện thực ấy, hằng ngày vẫn phải giao tiếp mọi người, những con
người mà “gót danh lợi bùn pha sắc xám.” Bận tâm với số lượng tăng giảm của
những tờ nhật trình, với những lời khen chê, những chuyện thị phi phù phiếm,
với các giải thưởng. Thế giới thực mà không thực. Thi sĩ, tự trong tính thể,
cũng chỉ là một hữu thể tại thế, một mảnh đời được ném ra đó để phải tự mình
sáng tạo nên giá trị của sự sống. Ta từ đâu đến? Mọi người đi tìm câu trả lời
trong các tôn giáo, triết học. Tín đồ tôn giáo tìm thấy câu trả lời cho định
mệnh tồn tại của mình từ tượng Thánh trang nghiêm trên bệ thờ, với những vòng
hào quang rực rỡ và tinh sạch, thánh thiện. Sinh viên triết học tìm câu trả lời
từ các giáo sư đạo mạo trên bục giảng nghiêm túc. Thi sĩ đi tìm câu trả lời từ
những rác rưởi của đời sống thường nhật – mà các nhà mô phạm văn hóa gọi là đời
sống hiện thực. Những giá trị nhân sinh được thẩm đinh là cao thượng, thánh
thiện, vinh quang, để dành cho các nhà văn hóa quan phương trong các dinh thự
cao sang. Giá trị nhân sinh tồn tại nơi thi sĩ chỉ là những mảnh vụn bị bỏ
quên, những đoạn đường khấp khểnh, những con người nửa điên nửa tỉnh. Ưu tư,
khắc khoải, hoang vu, sầu muộn, ưu phiền, những từ ngữ chất đầy bóng tối não
nùng trong các vần thơ, được xem như là biểu hiệu thái độ ươn hèn, khiếp nhược
trong trường cạnh tranh sinh tồn; là những từ ngữ có nội hàm đen tối trong các
pho từ điển triết học. Chất liệu phế thải trong đống rác là những thứ đáng lợm
giọng cho nhà phú hộ; nhưng là dưỡng chất tồn tại của những người cùng khổ.
Chúng hàm giá trị dinh dưỡng không hề nhượng bộ các thứ cao lương mỹ vị khi
được tiêu hóa bởi dạ dày của hạng cùng đinh. Thi sĩ tiêu hóa trong thơ mọi thứ
hạ liệt thấp kém, những thứ xấu xa vô nghĩa trong đời thường thành những giá
trị vĩnh cửu; thành những thực phẩm dinh dưỡng tất yếu cho tính thể tồn tại của
nhân sinh. Vậy thì, nhà thơ ấy từ đâu đến?
Từ
một tiền kiếp xa xôi nào đó, nơi mà định mệnh nhân sinh được tẩm ướt bằng nước
mắt. Những giọt lệ bi thương, hay đấy là những giọt sương long lanh trên ngọn
cỏ, đẹp vô chừng thoáng chốc trong ánh ban mai?
Hay
từ cõi địa ngục u tối cùng với những thân phận bị đày đọa; ở đó ta có những
người thân quen, những bằng hữu chân tình, yêu nhau mà cũng hận nhau, bởi “vì
chàng thân thiếp lẻ loi, vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi một mình?”
Tôi
đến từ một thế giới khác anh. Từ một thế giới thần tiên bị lưu đày, bước đi vô
cảm trong thế giới xa lạ này; rồi nghe hơi thở từ thơ – từ thơ anh hay từ
Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, từ tiếng khóc oán hận của cung nữ hay từ giọt lệ
tình của người chinh phụ, chợt thấy viên đá cuội lăn lóc bên vệ đường cũng chất
nặng tình đời, yêu và hận.
Hóa
trang làm nhà triết học, tôi dẩm bước lần theo từng gác sách mấy tầng thư viên,
thập thò trong các giảng đường mênh mông. Rồi máng áo nhà mộ phạm, tôi lang
thang trên các vỉa hè, với một nhà thơ, thật như điên mà cũng dường như tỉnh
táo lạ lùng. Chợt bắt gặp anh, ở đâu đó – cứ nói là trong quán lú từ một ngõ
hẻm lầy lội; anh trong phong vận thanh lịch hào hoa của thanh niên Hà nội. Tôi
chợt tưởng, đâu là tính thể của thơ? Một nửa thế kỷ sau, tôi gặp lại anh, không
trực diện, mà trong những câu hỏi:
Người
mà đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, vinh nhục, qua bao nhiêu sóng gió trường
đời, có thể không còn hỏi thơ là gì, đời là gì nữa. Dù vậy, trong trí óc tôi
vẫn mập mờ ám ảnh về một hình ảnh, về một cuộc đời hay cõi thơ xa xăm; hình ảnh
Nguyễn Gia Thiều mà anh dẫn về như lạc lõng giữa hiên ga tàu hỏa Saigon.
Anh
nói:
Nguyễn Gia Thiều đêm qua
mang áo tơi và mũ nỉ đen về ngồi chơi ở hiên ga Saigon, tôi có thấy. Bấy giờ
chuyến tàu nhám và khô sắp sửa khởi hành, khói nước và tiếng động, lời chào,
một con dơi ngoài cột điện, một đồng hào rớt trong chiếc cốc thủy tinh xanh.
Người nói thì thầm như hơi gió trong toa miệng các lỗ thủng, một tiếng ầm của
vỏ xe rập ngoài đường.
Đó
là thơ hay là câu chuyện kể thường thấy trên các trang nhật báo? Thật khó phân
định cái gì thực, cái gì hư, trong thơ và ngoài thơ. Vẫn câu hỏi, thơ là gì,
nhưng được nói sảng, một cách tự nhiên hay vô tình, thành câu hỏi, tại sao lại
Nguyễn Gia Thiều?
Con người trong lớp áo vương tôn ấy ngồi trên nhung lụa mà khóc cho thân phận bọt bèo, cho sự đời hư ảo. Thơ của ông vẫn là cái phong vận hào hoa, nỗi hiu hắt trong bóng tối của lầu son gác tía. Rồi một mai lịch sử thiên di, ai đã dẫn ông lang thang giữa chợ đời bát nháo? Thơ dù đi giữa phố chợ ồn ào, lăn lóc trong những ngõ tối lầy lội, nhớp nhúa, vẫn không mất đi cái cốt cách thần tiên, bởi như “Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó, chốn đào nguyên anh khoác áo khinh cừu” (Bùi Giáng). Vẫn còn đó, một cõi thơ, và hồn thơ, nâng niu tâm tình của một dân tộc, qua bao nhiêu đổi sao dời, qua những trận lũ tàn khốc của lịch sử.
Nguyễn Gia Thiều “mang áo tơi và mủ nỉ đen về chơi ở hiên ga Saigon,” hay “ngồi xe một mình khi về Lăng Cha Cả,” thì cũng y như những vần thơ lục bát thanh tao chen lẫn giữa những đoạn văn thuật sự. Có thể chăng, do bởi tình cờ của lịch sử, hay do tính chất huyền thoại hoang đường của văn minh tiến bộ, mà Nguyễn Gia Thiều lại hội ngộ Rimbaud? Nguyễn Gia Thiều, nhân cách trong lớp thượng lưu, bỗng nổi hứng xúi giục cô gái bị ruồng rẫy nổi loạn, “bực mình muốn đạp tiêu phong mà ra.” Rimbaud, câu học sinh con nhà dân dã, nổi thịnh nộ, đứng dậy chống lại trật tự văn minh, “je suis armé contre la justice.” Một cuộc tương phùng điên đảo, thế nhưng, trong cách nghĩ nào đó, trong một cảm thức thi ca và thời đại như thế nào đó, đấy có thể mường tượng như là hình ảnh, hay ấn tượng một thời thi ca, của miền Nam.
Thơ lục bát của Viên Linh, bên ngoài khoác y trang nho nhã của Cụ Ôn Như; dịu dàng như, “Biển nằm dỗ mộng thùy dương” (Hóa Thân, Ký Thác); nhưng bên trong lại cưu mang tâm tình nổi loạn của Rimbaud. Anh không nổi loạn để chống lại trật tự đã sắp đặt sẵn ở đó, mà nổi loạn chống lại cái định mênh đam mê trong chính mình.
Chống lại chính ta,
chống lại những xúc cảm bồng bột trong ta, nhà thơ vẫn không thể vượt qua khỏi
cái bóng định mệnh của mình. Ở nơi thơ, là một góc nhìn của thế giới, và thời
đại; từ đó, để ta nhìn xuyên qua, và nhìn sâu vào, tính thể của tồn tại. Thời
đại như bóng câu, đến rồi đi; cái còn đọng lại như là tồn tại của bóng mờ quá
khứ.
Ngồi trông cổ tích bay vèo
Muông đi thú lại rừng treo
mối sầu
Ngồi trông tóc trằng từng
giờ
Chân nhang bụi mọc ta thờ
một ta.
(Hóa Thân, Bản Thân)
Không phải là bóng mờ đơn độc từ nhân cách của nhà thơ.
Tính thể tồn tại được ném vào trong dòng chảy thời gian, như Kiều bị ném vào
“thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”; nhà thơ bị ném vào cuộc nhân sinh, âm
thầm ghi dấu phong ba của thời đại.
Thời đại chúng tôi, một phương trời khói lửa, một dân tộc
quằn quại nhưng vẫn không mất đi khí phách anh hùng từ thời dựng nước. Khí
phách ấy tìm đâu đây trong những lời thơ xót xa thân phận?
Phận nào xác ấy cô liêu
Chim đêm rũ tóc ngồi kêu
đường về
(Hóa Thân, Buôn Hô)
Từ đây khổ kiếp u hoài
Một tôi ngắn phận cho dài
thế gian
(Hóa Thân, Tôi II)
Ai có thể biết ngọn cỏ dại tàn úa bên vệ đường vẫn mang
trong nó cả một trời Thu?
Một lớp thanh niên cùng trang lứa lên đường theo tiếng gọi núi sông. Nhà thơ cũng bồn chồn, nửa đêm khoác áo ra đi. Vẫn âm vang câu hỏi nghìn đời, sống và chết, ai còn, ai mất? Bởi những kẻ ra đi không bao giờ trở lại. Bức tranh vân cẩu của thế hệ ấy, của thời đại ấy, cõi nhân sinh ấy, là gì?
Ngõ con bụi đỏ trăm ngày
mẹ mang
Xương khô gót chị kinh
hoàng
Kẻng khuya đồn lẻ đêm vàng
mấy anh.
(Hóa Thân, Cõi Nhân Sinh
I)
Vậy,
phải chăng sinh ra để làm thơ, là một định mệnh? Thời đại và nhân sinh là những
trận cuồng phong trên mặt biển, mà từ đáy sâu hun hút, nghìn đời vẫn âm thầm
chuyển tải nguyên ngôn của tính thể tồn tại. Ai có thể đào sụp đi đáy biển, để
cho mặt biển im sóng, hay để cho sóng càng dữ dội vỗ bờ? Gạt bỏ đi những lớp
phồn hoa của thời đại, dứt đi những sóng gió, bi thương và hùng tráng của một
thời, nhà thơ bước đi không ngừng nghỉ, cho dù bị hắt hủi bởi cát bụi từ ngựa
xe dồn dập trên đường, đi tìm bóng dáng chân thực của ta và thế giới của quanh
ta. Nguyễn Du, trước sau vẫn là bóng mờ bên dòng lịch sử, với câu hỏi trải dài
từ thủa hoang sơ: “Trăm năm trong cõi người ta.”
Cõi
người ta, như một thung lũng trong bóng tối đêm sâu, cho đàn bò ngơ ngác.
Cõi
người ta, thành phố điện mờ, mà người bị đẩy vào đó như bởi định mệnh mù quáng,
luôn luôn chuẩn bị để lên đường, cho cuộc lữ hành vô định, loanh quanh trên
những bến xe hoang vắng.
Đâu
là thi ca của một phương trời trong một thời đại lịch sử?
Thơ
– thơ của anh, và của những người cùng thế hệ của anh, vẫn là một góc nhìn, để
từ đó ta nhìn vào thế giới, mà sử tính huyền sử bị xóa mờ để được viết lại
thành lịch sử.
Nguồn: thuvienphatviet.com