Năm đầu thiên
niên kỷ 2000, làng văn hải ngoại có một cuộc quần hùng tụ họp rất đông đảo. Nay
thiên niên kỷ đã già 23 tuổi mà cuộc tụ hội này vẫn chưa bị phá kỷ lục. Tôi
nghĩ với sự thưa thớt mỗi ngày của giới viết lách, sẽ chẳng bao giờ có một cuộc
gặp gỡ kỳ thú như vậy. Ngày đó, từ bốn phương tám hướng chúng tôi kẻ lái xe
hơi, kẻ cưỡi máy bay nhằm đích đến: Boston. Một số anh chị em chẳng cần cưỡi
chi, họ ở ngay tại chỗ. Trần Doãn Nho, Lâm Chương, Nguyễn Trọng Khôi, Trần
Trung Đạo, Dư Mỹ, Lương Thư Trung. Từ mọi miền đất nước Hoa Kỳ túa tới có Hoàng
Lộc, Phạm Nhã Dự, Ngô Minh Hằng, Lê Mai Lĩnh, Trần Hoài Thư, Quan Dương, Hoàng
Thị Bích Ti, Nguyễn Xuân Hoàng. Từ Montreal, Canada, chúng tôi gồm Luân Hoán,
Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Vy Khanh, Hồ Đình Nghiêm, Lê Quỳnh Mai, Khải Minh và
Song Thao tới bằng nhiều xe, mạnh ai nấy đi, chẳng hàng lối chi. Tôi đã cố điểm
lại tất cả những khuôn mặt bên nhau ngày đó nhưng biết chắc cái trí nhớ đã lộn
xộn của tôi không cách chi nhớ hết nổi.
Chuyện chi mà
náo động thế giới vậy? Anh Phan Xuân Sinh ra mắt tập thơ “Đứng Dưới Trời Đổ
Nát”. Tập thơ thứ hai nhưng coi như tập thơ đầu. Trước đó, vào năm 1996, anh đã
cùng đứng chung với Dư Mỹ trong tập “Chén Rượu Mời Người”. Anh Phan Xuân Sinh
chăm sóc cho tập thơ đầu trong cung cách mà chúng tôi không ai theo nổi. Anh cặm
cụi ngồi khâu, làm bìa cứng cho từng cuốn. Nhìn những chồng sách chỉnh chu cao
nghệu nằm trên bàn, chúng tôi lắc đầu lè lưỡi. Ngày đó cái tên Phan Xuân Sinh
còn có phần xa lạ trong văn giới nhưng nhờ đâu anh lại tổ chức được một cuộc ra
mắt sách dữ dội như vậy? Tôi nghĩ là nhờ cái tình của anh với sách vở và với
anh em viết lách. Có lẽ đây là dịp nhiều người gặp anh Phan Xuân Sinh lần đầu.
Tôi cũng vậy. Chạm trán anh, tôi cảm thấy
ngay cái thân tình trong dáng vẻ xuề xòa của anh. Khi đó anh là người đang rất
thành công trên thương trường. Tôi chỉ loáng thoáng nghe anh có tiệm này tiệm
kia, tiệm nào cũng đông khách, nhất là tiệm rượu. Rượu bữa đó tràn đầy như tấm
lòng của anh với anh em. Chuyện anh mới tới định cự tại Boston được vừa đúng chục
năm theo diện HO mà thành công như vậy, chẳng ai nói ra. Bữa đó, chỉ có chuyện
chữ nghĩa. Và nghĩa tình. Từng đó con người mà không ai phải ở khách sạn. Ngôi
nhà rộng rãi của anh chị Phan Xuân Sinh – Thiên Nga và nhà của các văn hữu
trong vùng đã là nhà của mọi người.
Cái tình của
anh chị Phan Xuân Sinh với anh em văn giới thiệt hiếm có. Nhà thơ Quan Dương kể
lại: “Lúc tôi mới qua Mỹ ở nhà thuê . Bà xã tôi thấy tiền thuê nhà mỗi tháng
ngang với tiền mua nhà nhưng có sự khác biệt đó là trả tiền mua nhà sau khi trả
hết thì là nhà của mình. Còn trả tiền thuê nhà thì trả hoài trả hủy thì vẫn là
nhà của người ta. Thế là có ý định mua nhà. Muốn mua nhà thì phải có tiền đặt
cọc ít nhất là 5% trị giá căn nhà trước khi vay ngân hàng. Hai vợ chồng tôi mới
qua đi làm công cho hãng xưởng làm gì có tiền đặt cọc. Thế là tôi đem chuyện
này lên quán Cây Me để hỏi. Hỏi là hỏi vậy thôi chứ không hy vọng gì. Vậy mà
chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau, ông bưu điện đem khẩn câp đến nhà tôi tấm check
của anh Phan Xuân Sinh ký cho mượn khi nào có tiền thì trả, bao lâu cũng được .
Tấm check anh gửi overnight . Nhờ sự giúp đỡ sốt sắng này mà vợ chồng tôi mới
có tiền đặt cọc mua căn nhà này để ở tới bây giờ . Điều đáng quí trọng đó là
chỉ quen biết nhau qua chiếc cầu thơ văn thôi chưa gặp mặt vậy mà anh chị quyết
định cho mượn tiền không sợ quịt nợ chỉ vì tôi là dân tị nạn chính trị mới qua
Mỹ theo diện HO”.
Phan Xuân
Sinh tốt nghiệp trường sĩ quan Thủ Đức, đã bỏ lại một bàn chân trên chiến
trường. Trong cuốn tạp bút “Bơi Trên Dòng Nước Ngược”, cuốn sách chỉ có 206
trang nhưng được anh Lương Thư Trung cho là “tình người” nhất khi viết trong
bài tựa: “Mười bốn đoản văn trong tập sach này là mười bốn bức tranh trong một
dòng sống mà tác giả đã từng bơi qua hơn một lần thật vô cùng sống động. Chúng
tôi không nghĩ là nó sẽ hay hơn các bài thơ của ông mà chúng tôi tin là nó sẽ
làm cho chúng ta hiểu tấm lòng tác giả hơn và không khỏi bồi hồi xúc động về
một thân phận đầy bất hạnh giữa dòng sông đời mênh mông vô định, về một tâm hồn
nghệ sĩ. Trong tập sách nhỏ này nó không có chỗ cho sự khen chê mà là một
chuyên chở những chất liệu quý báu vô cùng của một khoảng đời hơn nửa thế kỷ
qua mà tác giả đã từng trải”.
Anh Phan Xuân
Sinh sanh ngày 2/1/1948 tại Nại Hiên Tây, Đà Nẵng, mồ côi mẹ khi mới 11 tháng
tuổi. Sống với người cha dạy học gà trống nuôi con, anh chịu thiệt thòi ngay từ
tấm bé. Anh có chí lập thân ngay từ lúc thiếu thời. Anh đã sống trọn với đất
nước trong cuộc chiến, đã mất mát nhiều kể cả bàn chân phải nhưng vẫn sống với
lòng nhân hậu, với cái tâm của một người hiền. Anh viết trong “Lời Mở Đầu” cuốn
“Bơi Trên Dòng Nước Ngược” về cuộc chiến mang lại nhiều mất mát của anh: “Những
chuyện đúng sai, công tội, để lịch sử phán xét, và tùy ở quan niệm cá nhân.
Trong tư cách của chứng nhân, tôi viết trong trạng thái bình thường, không hằn
học, hận thù. Dù trước đây tôi là một người lính của miền Nam, mất một phần
thân thể trong cuộc chiến đó. Cái nhìn của tôi có thể sai lệch vì định kiến,
nhưng chung quy, tôi viết về cuộc chiến mà tôi trực tiếp tham dự bằng trung thực
của trái tim mình. Tôi tránh viết về chiến tranh vì mỗi lần đụng tới nó, vết
thương cũ của tôi lại đau nhức nhưng rồi cũng không tránh được”.
Từ Boston,
anh rời nhà qua Houston khi nào, tôi không rõ. Tôi thường lui tới thành phố này
và mỗi lần tới thế nào cũng gặp anh và anh Lương Thư Trung. Hai anh như hình
với bóng. Vẫn với cái dáng lè phè, quần áo xộc xệch và giọng nói thân tình như
ngày ở Boston. Không biết có phải anh như một cục nam châm thu hút anh em không
mà các anh Lương Thư Trung, Trần Doãn Nho, Nguyễn Trọng Khôi cũng đều từ miền
Đông qua miền Tây với anh. Trong những cuộc trò chuyện, anh cho biết anh dời
chỗ ở vì công việc làm ăn. Đây là cú chót anh thách đố với số phận. Anh bán tất
cả các cơ sở thương mại tại Boston, ôm bạc triệu qua Houston mua nguyên một khu
thương mại gồm nhiều cửa hàng. Phần lớn anh cho thuê, chỉ giữ lại một căn làm
tiệm rượu và một cây xăng. Nếu thắng, anh sẽ rũ tay khi kiếm được một mớ tiền
đủ để gia đình sống suốt đời để sống trọn vẹn với chữ nghĩa. Vận may không mỉm
cười với anh. Chưa khai thác cơ sở mới được bao lâu, Walmart mở cửa hàng ngay
trước mặt, khu thương mại của anh mau chóng sập tiệm.
Những lần tôi
tới Houston sau đó, anh cho biết đang từ từ làm lại gần như từ đầu. Cái mất mát
không nhỏ này hình như không làm khó được tính kiên nhẫn của anh. Có có không
không, anh có vẻ coi như pha. Anh đã nhiều lần ngã và nhiều lần đứng dậy. Cú
ngã nặng nhất là khi đất nước tan tành, tên lính thua trận ngu ngơ sống trong
chế độ mới.
Anh bị đẩy ra
bán chợ trời. Chỉ được ít tháng, phần vì hết vốn, phần vì bị công an đuổi, anh
giã từ vỉa hè. Anh sống lây lất những ngày khi đói khi no tới khi ông bố từ Đà
Nẵng vào cho 3 lượng vàng để làm ăn. Đây là số tiền ông dành dụm được sau suốt
một đời dạy học. Anh góp ba cây vàng quý hóa này với 3 người bạn để sản xuất
bột giặt. Anh chỉ biết sơ qua cách chế biến bột giặt nhưng tới đường cùng nên
bốc phét biết làm cho bạn yên tâm. Sau nhiều ngày thí nghiệm, từ thất bại này
tới thất bại khác, nhờ trời anh thành công. Khi đó hàng tiêu dùng khan hiếm,
bột giặt được giá, giá thành một bán ra lời mười nên anh phất lên nhanh chóng.
Chỉ sau 4 tháng hoạt động, nguồn vốn từ vài cây vàng phồng lên thành 400 cây.
Khoái chí mấy chàng độc thân bốc như rượu. Trong khi cả nước đi xe đạp, mỗi
chàng mua một chiếc xe hơi vi vu với đời. Vui chơi nhưng vẫn không quên bạn bè.
Các bạn văn trong đó có nhà thơ Tường Linh và nhà văn Vũ Hạnh được anh lòn cửa
sau mỗi ngày tuồn cho mỗi người 50 kí mang đi bán chợ đen. Sáng lấy hàng đi
bán, chiều về trả tiền. Ngày nào bị công an hốt sạch thì xí xóa, lấy hàng khác
đi bỏ mối. Khi nhà nước đổi tiền, cơ sở làm ăn mất hết vốn vì mỗi người chỉ
được đổi có 200 đồng. Sau đó là đợt đánh tư sản mại bản, cơ sở sản xuất bột
giặt bị kiểm kê. Trong hồi ký, anh viết về cú sập tiệm này: “Tất cả cái gì có trong cơ sở đều bị vơ vét, tụi tôi bước ra mình không
với vài bộ áo quần cũ và chuẩn bị đi vùng kinh tế mới. Từ những người có nhà
lầu, xe hơi, tiền bạc vào ra như nước, sau một đêm trở thành những kẻ bần cùng,
thân tàn ma dại. Những người thân, bạn bè cũ một phần sợ liên lụy, một phần sợ
nhờ vả, không ai dám gặp tụi tôi. Đứng ngoài đường nhìn đoàn xe chở đồ đạc của
mình đi nơi khác, anh em ôm nhau rơi nước mắt”. Anh cùng bạn
bè quay ra làm bột trẻ em Đông Phương. Tổ hợp làm ăn khá khẩm. Không những cho
trẻ em ăn, bột còn được các bà vợ mua mỗi lần đi thăm nuôi các ông cải tạo. Sau
đó là các cơ sở làm lương khô cho bộ đội, kem đánh răng Mimosa. Những lần gục
ngã, những lần đứng dậy, anh Sinh chẳng bao giờ chịu thua hoàn cảnh. Cho tới
khi gia đình anh được qua Mỹ theo diện HO.
Phan Xuân
Sinh biết làm ăn nhưng cũng biết làm thơ. Anh đi vào văn học bằng thơ trước khi
viết văn. Học giả Nguyễn Hiến Lê có lần viết: “Chúng ta có thói quen đọc sách
chỉ để hiểu một truyện hay một hệ thống tư tưởng, ít khi tìm hiểu tấm lòng của
tác giả”. Đọc văn Phan Xuân Sinh, độc giả dễ dàng nhận ra tấm lòng của anh. Nó
bộc lộ rõ ràng trong mỗi bài viết, dù là một bài văn xuôi hay một bài thơ. Thơ
“cụt chân” mà không thấy oán than, trách móc. Trái lại chỉ cầu mong hòa bình
cho đất nước khỏi tanh bành.
ở chiến trường như đứa ngu
ngơ
nên đạn tìm ta một lần đốn
ngã
máu không về tim nên xối xả
xui xẻo một lần thành đứa cụt
chân
khi tỉnh giấc hồn dạ bần thần
ta vĩnh viễn làm tên vô dụng
ngó xuống bàn chân xưa đã mất
ta điếng người, tàn cả một đời
trai
vẫn còn nghe tiếng đạn réo
bên tai
cứ mỗi đêm lên cơn kinh động
người đuổi giết người như
say máu
tỉnh giấc ngó quanh vã mồ
hôi
chiến trường sao cứ mãi sục
sôi
cứ mãi xé tanh bành đất nước
hòa bình, hòa bình sao chưa
thức?
nối lại giùm ta, dịu bớt cơn
đau
Lỗ một phần thân thể vì đạn của phía bên kia nhưng khi ngồi nhậu với nhau, hai “anh hùng” của hai phía vẫn muốn “để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút”.
Uống Rượu
với Người Lính Bắc Phương
Phan
Xuân Sinh
Rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi xung trận mà không té đái
Ta cũng có người yêu nhỏ dại
Mỏi mắt trông chờ song cửa quê nhà
Chuyện sống chết căn bệnh trầm kha
Đâu dễ gì thoát vòng sinh mệnh
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
Thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
Bày làm chi trò chơi xương máu
Để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc
Người yêu của bạn ở ngoài phương Bắc
Giờ nầy đang hối hả tránh bom
Hay thẫn thờ dõi mắt vào Nam
Để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ
Rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ
Tình yêu như một thứ điểm trang?
Che đi chút dối lòng.
Uống với bạn hôm nay ta phải thật say
Để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút
những ngày đầu xuân 1972
Thơ Phan Xuân Sinh không có những mộng mơ vì đời không cho anh có thời giờ mộng mơ. Anh rất thực tế nên thơ của anh rất đời, rất hào sảng. Thật thiếu sót nếu không phớt qua thơ tình của anh.
tình yêu bắt đầu như thế
nào?
trước khi em muốn biết
và trước khi tôi mở đầu
chúng ta nên hôn nhau
em phải nuốt thật sâu vào lưỡi
của tôi
và tôi phải cắn chặt vào môi
em
khi đó tay em phải làm gì?
chẳng lẽ buông thõng
đâu được, như vậy rất phí phạm
em cứ cào cấu, cứ ngắt nhéo
vào người tôi
không sao cả
chỗ nào em thích, cứ mạnh
tay.
còn tôi xin được
một tay ôm lấy em vuốt ve
còn tay kia được sờ vào chỗ
nhạy cảm nhất của em
bằng một cử chỉ đôi lúc nhẹ
nhàng
đôi lúc thô bạo
nhưng chắc chắn
thấm đậm phần điêu luyện
Con người không bao giờ mỏi
mệt với cuộc sống, không bao giờ cà khịa với cuộc đời, lúc nào cũng đầy đặn với
mọi người đã bị một cơn trụy tim hất ra khỏi cuộc đời vào ngày 28/2/2024. Tôi
nghĩ anh rất ngơ ngác vì cú hất này. Chia tay với anh trong ngỡ ngàng, tôi mượn
câu thơ nho nhỏ của anh bạn Hoàng Xuân Sơn trong bài “Sinh Khấp”.
Bơi đi
Bơi đi
Bơi đi
Nước ngược rồi cũng tới thì
Xuôi tay
SONG THAO
28/2/2024
Xem tiếp...
Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn - nhà văn Lâm Chương
- Song Thao - nhà văn Trần Doãn Nho - nhà thơ Phan Xuân Sinh (Montréal, 2001)
Từ trái qua phải: Nhà văn Lâm Chương, nhà văn
Lương Thư Trung, nhà thơ Phan Xuân Sinh, nhà văn Trần Doãn Nho, Song Thao, nhà thơ Đức Phổ.(Boston, 8/2004)
Từ trái qua phải: nhà thơ Triều Hoa Đại, Song
Thao, nhà văn Hoàng Thị Bích Ti, nhà thơ Phan Xuân Sinh, nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp.(Boston 8/2004)
Từ trái qua phải: nhà thơ Phạm Nhã Dự, nhà thơ
Nguyễn Xuân Thiệp, nhà thơ Phan Xuân Sinh, nhà văn Lâm Chương, nhà thơ Triều
Hoa Đại, nhà văn Lương Thư Trung, nhà văn Thu Thuyền, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, vợ
chồng Song Thao, họa sĩ Chung Thanh Thủy.(Boston 8/2004)
Với nhà thơ Phan Xuân Sinh (Houston, 8.2011) |