1.
Trong một bối cảnh đất nước nhiễu nhương, hỗn loạn, nhà văn
thường đóng một vai trò quan trọng bằng cách sử dụng ngôn từ của mình để phản
ánh, phê bình, truyền cảm hứng và đôi khi thậm chí thách thức hiện trạng. Trong
suốt chiều dài lịch sử, nhà văn phản ứng với những biến động khác nhau, cho dù
đó là xã hội, chính trị hay văn hóa. Các nhà văn thường đóng vai trò là người
quan sát nhạy bén về thế giới xung quanh. Trong thời kỳ hỗn loạn, họ có thể suy
ngẫm về nguyên nhân và hậu quả của biến động xã hội, cung cấp những hiểu biết
và phân tích có giá trị. Thông qua các tác phẩm của mình như tiểu thuyết, tiểu
luận, kể cả những bài báo và xã luận, nhà văn có thể đưa ra những bình luận
giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự phức tạp của tình huống.
Quan trọng hơn cả,
văn học luôn là phương tiện mạnh mẽ để diễn tả những trải nghiệm của con người,
kể cả những thời kỳ hỗn loạn. Nhà văn có thể sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn
hoặc thơ ca nắm bắt được tác động về mặt cảm xúc và tâm lý của những thời kỳ
hỗn loạn. Những tác phẩm này có thể phục vụ như một hình thức thanh lọc cho cả
tác giả và độc giả.
Tôi nghĩ về nhà
văn Ngô Thế Vinh như thế suốt mấy chục năm qua từ khi có cơ hội đọc những cuốn
tiểu thuyết của ông xuất bản trước 1975 cho đến mãi gần đây với những bài biên
khảo giá trị về mối hiểm họa ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long do nguy cơ con sông
Mekong đang bị thách thức trầm trọng.
Tác phẩm của ông thường xoay quanh các chủ đề hướng về quê hương Việt Nam, những vấn nạn mảnh đất đang gánh chịu và những con người cùng khổ trong đó. Ông là nhà văn “nổi trôi” cùng vận nước, những tư duy siêu hình mang tính triết học không nằm trong bộ từ vựng của ông Ông viết từ trái tim của mình, và những điều đó đi thẳng vào trái tim người đọc.
2.
Cuốn tiểu thuyết Vòng
Đai Xanh của ông được khởi viết từ những năm giữa của thập niên ‘60, khi có
phong trào FULRO nổi dậy trên Tây Nguyên (1964). Lúc đó ông đang giữ
chức Chủ bút báo Tình Thương (1963-1966),
một cơ quan tranh đấu văn hóa xã hội của sinh viên Y khoa Sài Gòn. Cuốn sách
được hoàn tất trong thời gian ông gia nhập Lực lượng Đặc biệt, giữ chức vụ
Y sĩ trưởng Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, với địa bàn hoạt
động chính là Tây Nguyên, nhà Thái Độ xuất bản lần đầu năm 1970,
và năm sau, được trao tặng giải thưởng Văn chương Toàn quốc bộ môn Văn.
Khi Ngô Thế Vinh
hoàn tất cuốn sách này, chiến tranh Việt Nam đang đi vào giai đoạn khốc liệt
nhất, đó là đầu thập niên ‘70 khi chính quyền Mỹ đẩy mạnh cuộc “Việt Nam hóa”
chiến tranh để tìm cách rút lui khỏi miền Nam trong danh dự sau khi nhận ra họ
không thể chiến thắng bằng quân sự mặc dù đã đổ không biết bao nhiêu tài nguyên
và xương máu vào cuộc chiến. Cuộc chiến kết thúc năm năm sau đó với một kết quả
và hệ quả cực kỳ bi thảm cho một tập thể con người miền Nam, hoặc bị ném vào
những trại giam khắc nghiệt mệnh danh là “trại cải tạo” hoặc phải bồng bế nhau
liều chết vượt biên đi kiếm sống ở những chân trời xa lạ đầy trắc trở, khó
khăn. Cuộc chiến đã gây chấn thương trong lòng dân tộc, một vết thương quá lớn
đến nỗi dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua từ ngày tiếng súng ngưng nổ mà dư âm và
nỗi ám ảnh quá khứ vẫn đau nhức khôn nguôi trong tâm tư người dân Việt, dù ở
bên này hay bên kia chiến tuyến.
Sinh trưởng trong
một bối cảnh lịch sử nhiễu nhương cộng thêm nhiệt huyết phẫn nộ của tuổi trẻ và
lòng yêu quê hương tha thiết, nhà văn Ngô Thế Vinh đã hoàn tất tác phẩm của
mình như một thực chứng cho một giai đoạn lịch sử. Vòng Đai Xanh được đánh giá bởi giới trí thức và phê bình là một
trong những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam trung thực nhất. Ở đây không
thấy “ta-địch,” không thấy “chính-ngụy,” mà chỉ thấy nỗi thống khổ của những
nạn nhân bất hạnh bị ném vào lò lửa chiến tranh bởi những mưu đồ thâm hiểm và
tàn bạo của những thế lực đối nghịch sử dụng ý thức hệ và những lý tưởng tuy
đẹp đẽ nhưng đầy màu sắc hoang tưởng để biện minh cho một cuộc phân liệt tranh
giành ảnh hưởng, đất đai trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu.
Tác phẩm tiểu
thuyết quan trọng khác nhà văn Ngô Thế Vinh viết trong thời đoạn này là cuốn Mây Bão. Cuốn sách – viết năm tác giả
mới 19 tuổi, xét về mặt biên niên, là cuốn tiểu thuyết đầu tay – nhưng ngay cả
thế, người đọc vẫn thấy sự tàn bạo của chiến tranh hiển hiện một cách đau đớn
trên trang sách. Hãy đọc lại đôi dòng trong cuốn tiểu thuyết: “Đó là một thứ nhân đạo trong chiến tranh để
tránh cho đồng bạn khỏi mòn mỏi đau đớn đi dần tới cái chết và thực tiễn hơn nữa là để khỏi phải rơi vào
tay địch, khỏi phải sợ những trường hợp bị ‘fuite’ tin cơ mật.” Và cuộc “mổ
sống” diễn ra như phân cảnh một cuốn phim kinh dị, rùng rợn quá sức chịu đựng cho
một độc giả bình thường: “Vũ nhanh nhẹn
cầm dao xẻ những mảnh da thịt vắt lên, kẹp máu các động mạch rồi đưa những nhát
cưa xoèn xoẹt như cưa gỗ. Mặc sức cho con bệnh la hét chửi rủa giãy giụa trên
mặt bàn đã bị siết cứng. Làm gì còn thuốc mê hay gây ngủ ở chốn đèo heo hút gió
này…”
Làm sao một thanh
niên 19 tuổi lại có thể viết được những dòng chữ về những điều bạo tàn dường
ấy? Nhiều khi tôi tự hỏi.
Ngô Thế Vinh là
một trong những nhà văn tích cực tham gia vận động và hoạt động thông qua tác
phẩm của mình. Cụm từ “nhà văn dấn thân” có thể bị lạm dụng ở chừng mực nào đó,
nhưng có lẽ khó tìm được một danh xưng nào khác nói về họ. Họ sử dụng ngòi bút
như một nền tảng để nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội, sự bất công, thậm
chí sự phẫn nộ, bất mãn. Nơi đây, nhà văn có thể truyền cảm hứng cho sự thay
đổi bằng cách huy động dư luận và khuyến khích hành động tập thể. Trong thời kỳ
hỗn loạn, nhà văn có thể thách thức các chuẩn mực, hệ tư tưởng hoặc quyền lực
chính trị đã được thiết lập. Nhà văn Ngô Thế Vinh đã làm như thế với bút ký
ngắn Mặt Trận Ở Sài Gòn.
Trong thiên truyện
này, nhà văn thuật chuyện một đám lính của ông đang đi hành quân bỗng bị gọi về
thủ đô Sài Gòn để dẹp những đám người biểu tình. Cảnh huống mười phần vô lý đó
đã khiến ông phẫn nộ phải hạ bút viết những dòng chữ: “Không lẽ những mộng tưởng binh nghiệp chỉ có thể biến chúng tôi thành
những tên gác-dan cho bọn nhà giàu, một thứ cảnh sát công lộ chỉ đường trên
dòng luân lưu của lịch sử… Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn
phải đương đầu với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn, đó là cảnh thối nát bất
công của xã hội mà dân tộc đang phải hứng chịu trong tối tăm và tủi nhục…”
Chẳng có gì ngạc
nhiên, vì những dòng chữ đó mà Ngô Thế Vinh bị bắt ra hầu tòa với tội danh “phổ biến những luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh
thần chiến đấu của quân đội…”
Thật là khôi hài. Nhưng không phải vì thế mà Ngô Thế Vinh chịu khuất phục, ông vẫn tiếp tục viết như thế rải rác trên nhiều trang sách khác, chỉ vì ông là nhà văn của lương tâm. Ngoài vai trò một nhà văn, ông còn là một người lính, ông không muốn sự hy sinh của mình và các bạn đồng đội chỉ nhằm bảo vệ cho một “xã hội trên cao”, một xã hội hưởng thụ thừa mứa của “một đám người kêu gọi chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến ấy.”
3.
Với một tâm thức và cảm thức luôn hướng về đất nước, dân
tộc, nhà văn Ngô Thế Vinh, khi bước sang lĩnh vực biên khảo, đã không chọn con
đường dễ dãi ngồi nhà đọc vài cuốn sách rồi xướng lên thuyết này thuyết nọ. Ông
chọn con đường gai góc hơn nhiều.
Trong vòng mấy chục năm qua – với hai tác
phẩm quan trọng gây tiếng vang không ít, Cửu Long Cạn
Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong
Dòng Sông Nghẽn Mạch, cộng thêm hàng chục tiểu luận biên khảo, nghiên cứu
giá trị về những biến đổi nguy hại của hệ sinh thái sông Mekong – ông mặc nhiên
được xem như một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, và một cách ưu ái hơn,
con chim “báo bão” về mối đe dọa thường xuyên và ghê rợn từ phương Bắc đối với
sự sinh tồn của đất nước và dân tộc. Để thực hiện các bộ
sách về sông Mekong ông đã lặn lội từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc xuống các quốc
gia Lào, Thái Lan, Kampuchia và đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Qua các chuyến
đi quan sát thực địa, ông đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái bất khả đảo nghịch
của con sông Mekong, “hậu quả dây chuyền
của những bước khai thác tự hủy, tàn phá sinh cảnh, làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường,” do chính sách phát triển kinh tế bất chấp
hậu quả tai hại ra sao của nhà cầm quyền Trung Quốc, mà Việt Nam là quốc gia
lãnh chịu hậu quả nặng nề và thiệt thòi nhất.
Gần đây hơn, chính xác là năm 2023, ông
liên tiếp tung ra một loạt những bài biên khảo về dự án kênh Phù Nam Techo, một
thủy lộ vận tải đầu tiên của Kampuchia
nối liền hệ thống sông Mekong và đường biển. Nhà văn Ngô Thế Vinh cảnh báo rằng
con kênh này, do nhà nước Kampuchia đang gấp rút triển khai, “không chỉ có mục đích đơn thuần nhằm giải
quyết những thách đố khó khăn trong lãnh vực vận chuyển đường thủy, nhưng xa
hơn thế, đây là một Con Kênh Đa Năng với nhiều tham vọng, nhằm kích hoạt các
hoạt động kinh tế và xã hội tới một tầm mức cao mới.” Và quan trọng hơn
hết, sự phát triển có tính bừa bãi, bất chấp đến hệ sinh thái thiên nhiên, sẽ
gây nên tình trạng tàn phá rộng rãi, “một
Biển Hồ như trái tim của Kampuchia chỉ còn một nhịp đập thoi thóp do thiếu
nước, không còn sáu tháng với nước sông Mekong chảy ngược vào Biển Hồ, nơi cũng
là vựa cá lớn nhất và là nguồn protein chính của người dân Kampuchia.”
Lời cảnh báo của nhà văn Ngô Thế Vinh từ
mấy chục năm nay có tính tiên tri. Thực tế cho thấy, mùa khô những năm gần đây, tình trạng hạn hán,
xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra ở các địa phương vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Đơn cử thời điểm giữa mùa khô 2021-2022, nước mặn từ biển theo các kênh rạch
xâm nhập sâu vào nội đồng các huyện Long Phú, Trần Đề, Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng
với nồng độ mặn rất cao, gây ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của người dân.
Báo chí địa phương và cả
các cơ sở thông tin quốc gia cho biết là vào khoảng cuối tháng 2 năm 2022, nồng
độ mặn đo được tại các trạm trên một số tuyến sông, kênh rạch ở các huyện tỉnh
Sóc Trăng dao động từ 2,5 đến trên 18,4‰. Không chỉ thế, nước mặn từ biển ngày
càng tiến sâu vào đất liền và ngâm lâu ở các kênh, rạch, gây nhiều khó khăn cho
người dân lấy nước cho việc sản suất, sinh hoạt. Tại thành phố Cần Thơ, từ năm
2015 đến nay, một số khu vực thuộc địa bàn thành phố xuất hiện rõ nét tình
trạng mặn xâm nhập từ biển vào qua tuyến sông Hậu.
Liệu có ngày có hiện tượng “Cửu Long cạn dòng” không? Dĩ nhiên ta phải hiểu “cạn dòng” đây là cạn dòng nước ngọt, nước sẽ vẫn lênh láng trên mặt sông, nhưng là nước biển mặn, chẳng còn phù sa màu mỡ tưới khắp ruộng đồng nữa. Lúc đó có ai còn nhớ đến Ngô Thế Vinh không?
4.
Nhà văn Ngô Thế Vinh và tôi có mối giao tình từ lâu. Tôi quý
mến và quý trọng nhân cách, tài năng của ông, ngược lại, ông cũng rất quý mến
tôi. Điều đó tôi nghĩ một phần là do tấm lòng nhân hậu của ông. Sự nhân hậu đối
với bằng hữu đã khiến ông cho xuất bản bộ sách Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa gồm hai tập.
Đó là một bộ sách vẽ “chân dung” bằng chữ nghĩa các văn
nghệ sĩ và các nhà văn hóa trong mắt nhìn của ông.
Những chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa, qua giọng văn
đầy thân ái và nhân hậu của nhà văn Ngô Thế Vinh, là một công trình biên soạn
phong phú tư liệu, một tập hợp quý hiếm quy tụ những khuôn mặt văn nghệ và văn
hóa tiêu biểu của một thời đại vốn được xem là nhiễu nhương nhất của dân tộc,
suốt nửa sau thế kỷ XX cho đến nay. Ngô Thế Vinh không khoác áo nhà phê bình,
ông không làm kẻ đứng trên bục giảng nghiêm khắc phê phán tác phẩm hay sự
nghiệp mỗi văn nghệ sĩ được nhắc đến. Ông không làm thế, bởi họ chẳng phải ai
xa lạ mà chính là những bằng hữu văn nghệ, những vóc dáng tài năng, gần như
trọn đời người, đã cùng ông dấn thân trên những chặng đường trắc trở nhất,
trong những điều kiện ngặt nghèo nhất, để xây dựng một nền văn nghệ nhân bản
đích thực và có giá trị nghệ thuật cao cho dân tộc. Ông mượn tác phẩm của họ
như cái cớ để ngồi xuống nhẩn nha lần giở từng trang ký ức bộn bề, len lỏi vào
từng ngõ ngách tâm hồn dưới lớp bụi dày thời gian, cố tìm lại những cung bậc
hoài niệm mù tăm để làm nên những trang viết thật đẹp, thật ấm áp tình bằng
hữu, thật chan chứa tình người. Tất cả những gì ông viết trong bộ sách gần như
chỉ là những nét phác họa đại cương về con người, khung cảnh sống, hoàn cảnh
sáng tạo của những văn nghệ sĩ, mà chính ông cũng là một thành viên. Đan xen
vào đấy là những không gian và thời gian kỷ niệm, đầy ắp kỷ niệm, kỷ niệm nào
cũng được nâng niu, trân quý như món bảo vật khó tìm. Tuy thế, đọc kỹ hơn,
chúng ta có thể cảm nhận ra một điều, là bên dưới lớp sắc màu tương đối hiền
hòa, dịu êm ấy là niềm xác tín chắc nịch, một cái nhìn quả quyết cộng thêm chút
tự hào, về một nền văn nghệ, văn hóa miền Nam Việt Nam tự do thời kỳ 54-75 và,
trong chừng mực nào đó, vẫn tiếp nối ở hải ngoại, mà sự đột phá về các mặt tư
tưởng, nghệ thuật, nhân sinh, tưởng như chưa thời nào qua mặt nổi.
Bộ sách hai tập ấy có những trang viết chân tình, đẹp đến nao lòng. Tình bằng hữu, nhất là bằng hữu văn nghệ, không phải một sớm một chiều có ngay. Từ điểm hội tụ, nó cần được chưng cất, tinh luyện nhiều tháng năm với tấm lòng chân thành, tha thiết. Điểm hội tụ đó chính là lòng đam mê văn chương, nghệ thuật mà Ngô Thế Vinh cùng các bằng hữu của ông có thừa.
5.
Hình như tố chất đam mê đã chảy rất sớm trong huyết quản nhà
văn Ngô Thế Vinh. Chính niềm đam mê đã giúp ông suốt văn nghiệp có thể đảm nhận
trách nhiệm bảo tồn ký ức văn hóa và lịch sử của xã hội Việt Nam trong thời kỳ
nhiễu loạn. Thông qua các tác phẩm tiểu thuyết cũng như biên khảo, hoặc các tài
liệu phi hư cấu, ông góp phần tạo nên ký ức chung và giúp đảm bảo rằng những
câu chuyện quan trọng không bị lãng quên.
Trong những thời
điểm xung đột hoặc chia rẽ, ông đã cố gắng xây dựng những cầu nối hiểu biết
giữa các nhóm khác nhau. Thông qua công việc của mình, ông nuôi dưỡng sự đồng
cảm và thúc đẩy đối thoại, tìm kiếm điểm chung và tính nhân văn chung.
Ngay cả trong
những thời điểm đen tối nhất, một nhà văn như Ngô Thế Vinh vẫn có thể mang đến
cảm giác hy vọng và cảm hứng. Thông qua lời nói của ông, chúng ta có thể đưa ra
tầm nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn, thúc đẩy các cá nhân kiên trì và hướng
tới sự thay đổi tích cực.
Nói như thế bởi tôi luôn luôn nghĩ ông là kẻ dầm mình đi trong bão tố để tìm con đường sáng sủa hơn cho tương lai dân tộc Việt Nam, một dân tộc chịu quá nhiều khổ đau và thiệt thòi.
– Trịnh Y Thư