KẺ SÁT NHÂN Truyện ngắn Thứ nhân La Bố
Tsering Norbu 次仁罗布 ( 1965 - ) Sinh năm 1965, tuổi thơ
Tsering Norbu sống trong một cái sân gần đường Barkhor, giữa lòng thành phố cổ
Lhassa. Con đường dài mà những người hành hương quanh tu viện Jokhang hay đi
lại. Ngày nay, đây là di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận, thu hút
nhiều du khách. Ký ức của tác giả lẫn lộn những hương vị các ngọn đèn, những
giọng cầu kinh và vị ngọt các trái cây hoang dã do những nông dân mang tới bán.
Tuổi thơ của ông cũng là ký ức những năm Cách mạng Văn hoá. Cũng như nhiều nơi
khác ở Trung Quốc, nơi ông ở thật khó kiếm ra sách vở, in sách lại càng khó
hơn. Năm 1981, ông học văn học tại Đại học Tây Tạng. Tuy nhiên ông lại say mê
những bản dịch tác phẩm của các nhà thơ Anh Quốc như Shelley, Keats,
Shakespeare. Tốt nghiệp năn 1986, tác phẩm đầu tiên ông viết là một bài thơ:
Tụng ca ban đêm, ( 颂夜,
Tụng dạ ) lấy cảm hứng từ bài Tụng ca chim sơn ca ( 夜莺颂》,
Dạ oanh tụng ) của Keats. Sáu năm sau đó, ông đi dạy ngôn ngữ Tây Tạng ở nhiều
nơi trước khi về dạy tại Trường Bưu điện RAT ở Lhassa. Chính tại đây, khi đến
thăm một người bà con, ông nhìn thấy một người qua sông trên một chiếc thuyền
cũ. Ông có cảm hứng viết truyện ngắn đầu tiên. Người chèo thuyền ở La Tư ( 罗孜的船夫, La Tư đích thuyền phu ), in năm 1992
trên Tây Tạng Tạp Chí ( 西藏日报社
) Sau đó, ông mất việc vì xí nghiệp bưu điện, là cơ quan chủ quản của trường
ông dạy, cơ cấu lại, bắt đầu mở rộng các quan hệ với nước ngoài. Ông dấn thân
vào nghề báo, làm việc tại Tây Tạng Nhật Báo, trước tiên phụ trách dịch thuật,
sau đó làm phụ tá biên tập. Được nhà phê bình nổi tiếng Lý Gia Tuấn ( Li Jiajun
李佳俊 ) gởi gắm, ông vào học tại Viện Lỗ
Tấn năm 2004. Ông khám phá ra rằng viết một truyện ngắn không phải chỉ là kể
một câu chuyện. Kết quả trực tiếp của việc học tập này là truyện Kẻ sát nhân
giới thiệu dưới đây. Sau đó, tháng 2 năm 2007, ông in một truyện vừa và đạt
giải thưởng Văn học Tây Tạng Thế kỷ mới. Truyện ngắn tiếp theo là Amerika ( 阿米日嘎 ), tên một con bò rừng, chủ yếu đề cập đời sống nông thôn
Tây Tạng. Hiện nay, ông phụ trách biên tập cho Tạp chí “ Văn học Tây Tạng “, là
một trong những đại diện xuất sắc của văn học Tây Tạng viết bằng tiếng Trung. Tác
phẩm của ông bao gồm nhiều truyện ngắn, có thể kể theo ba giai đoạn: 8 truyện
ngắn và truyện vừa, thuộc giai đoạn đầu tiên, viết theo lối tự nhiên ( 1992 -
2005 ). 2 truyện ngắn, với bút pháp trau chuốt, giai đoạn 2005 - 2009. 3 truyện
năm 2009 và 3 truyện năm 2011, giai đoạn phát triển với nhiều chủ đề đa dạng.
Ngoài ra, ồn còn viết một tiểu thuyết ( Lời nguyện cầu trong gió ), xuất bản
tháng 8 năm 2005. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Anh và tiếng
Pháp. Cũng có tác phẩm được chuyển thể thành phim ảnh. Truyện Kẻ sát nhân là
một trong hai truyện ngắn mà kịch bản phim Jinpa ( 撞死了一只 羊 ) mô phỏng. Phim đoạt giải tại Liên
hoan Phim Venise tháng chín năm 2018. Kẻ sát nhân là một trong những truyện nổi
tiếng nhất của Thứ Nhân La Bố. Truyện tương đối ngắn, viết ở ngôi thứ nhất: câu
chuyện giết người và chuộc tội, hoặc đúng hơn là chuộc tội mà không giết người,
chuộc tội đồng thời cho người đi giết và người mà anh ta muốn giết. Đây là sự
chuộc tội tâm linh, vượt lên trên sơ đồ thông thường của sự trả thù. Truyện
được viết trong thời gian tác giả tham dự khoá học viết văn tại Viện Lỗ Tấn,
sau đó được chỉnh lại và in trong số mùa hè của tạp chí định kỳ Văn học Tây
Tạng. Truyện được trao giải thưởng Truyện ngắn hay nhất nước năm 2006. Truyện
cũng giúp cho tác giả có tên năm 2007 trong thành phần Ban giám khảo Giải
thưởng văn học Lỗ Tấn Truyện thuộc về dòng văn học Tây Tạng được giải phóng
khỏi trào lưu “ hiện thực ảo thuật “ đánh dấu thập niên 1990 và có khuynh hướng
nghiêng về chủ nghĩa hiện thực. Tác giả sử dụng bút pháp riêng biệt để nói đến
những vấn đề của xã hội Tây Tạng hiện đại, nhưng vẫn chưa thoát được truyền
thống và tôn giáo.
Truyện ngắn
KẺ SÁT NHÂN
Chất đầy hàng hoá được phủ lên trên
bằng một tấm bạt màu xanh lục cột thật chặt, chiếc xe tải Đông phong lao nhanh
từ đông sang tây trong một không gian mênh mông bát ngát, xe làm tung bụi ra
khắp xung quanh. Tôi một mình lái xe, quá mệt mỏi, cứ ngáp lên ngáp xuống. Tay
trái cầm vô lăng, tôi đưa tay phải móc một điếu thuốc ra khỏi túi xách. Tôi
vụng về lấy hộp quẹt châm thuốc lập cập mãi khiến không thể phân biệt được điếu
thuốc, tôi nhả khói từng ngụm trắng lan toả ra khắp ca bin xe. Trước mặt tôi là
khung cảnh xám xịt trải ra vô tận, tôi cảm thấy mệt mỏi vô cùng, chỉ có một
cách để khỏi buồn ngủ là hút thuốc, rít hơi dài nhưng làm vậy thì thuốc lại mau
tàn. Lúc tôi thò tay vô túi xách lần nữa, tôi bỗng nhận ra một cái bóng đen nhỏ
nơi phía chân trời đang di chuyển, tôi tự hỏi không biết đó là người hay là thú
vật. Tôi nhấn mạnh ga để nhanh chóng tới gần. Cái bóng đen dần dần thành hình
và lộ ra một con người đơn độc đang đeo trên vai những chiếc chăn. Tôi tự nhủ
đây là một người đang đi hành hương. Với tốc độ tôi đang lái, chẳng mấy chốc
tôi đã tới gần anh ta. Khi nghe tiếng máy xe nổ, người đó dừng lại, đứng im
nhìn về phía xe. Xuyên qua cửa kính, trong khung cảnh rộng mênh mông này, anh
ta có vẻ nhỏ bé quá, lại đơn độc, yếu đuối nữa. Tôi chợt có ý nghĩ làm một hành
động tử tế là cho anh ta quá giang một đoạn đường. Khi thấy xe đến gần, anh ta
đưa tay ra vẫy. Tôi nhận thấy anh có những dây buộc trên tóc, người gầy gò, đeo
một cây dao găm. Tôi dừng lại ngay, đến gần và ra dấu để anh lên xe. Anh ta mở
cửa, bỏ trên ghế ngồi những cái chăn, một hủ bằng nhôm cáu đen, để dành khoảng
trống để ngồi xuống. “ Anh để các thứ đó ở dưới ghế đi!”, tôi ra lệnh. Anh ta
túm lấy những cái chăn, nhét xuống đất, lấy chân đạp lên. Đó là một Khampa ( 1
), mặt anh tái mét, có đường nét góc cạnh, mồ hôi nhễ nhại, chân mang đôi giày
da mòn, có nhiều lỗ thủng. Tôi cho máy nổ lại và tiếp tục phóng nhanh trong bãi
cát ngút ngàn trước mặt, và cũng tung bụi mù như trước. Anh ta há hốc mồm, nhìn
qua cửa sổ khung cảnh hoang vu phản chiếu qua tròng mắt, thỉnh thoảng, anh
chừng như hồi tưởng một kỷ niệm xa xăm, một nụ cười thoáng qua trên môi. “ Này
anh bạn, anh đi hành hương phải không?” Anh chàng Khampa đưa mắt buồn tẻ nhìn
tôi, nuốt nước bọt và lại tiếp tục quan sát khung cảnh xung quanh. “ Anh đi
hành hương hay đi buôn?” tôi nóng nảy hỏi lại, lớn tiếng hơn. “ Không hành
hương cũng không đi buôn, tôi đi tới Sakar “ Tôi vui vẻ đáp lại bằng một nụ
cười: “ Anh may mắn quá đấy, tôi đi Ngari , anh đỡ một đoạn đường rồi đấy. Anh
chàng Khampa mỉm cười cám ơn tôi. Giờ đây trong xe không khí thân tình. Tôi đốt
một điếu thuốc nữa và chậm rãi hút, mệt mỏi đã hết, “ Vậy anh đến Sakar làm
gì?” tôi hỏi trong khi vẫn nhìn con đường trước mặt. “ Tôi đi giết một người.”
Câu nói làm tôi sợ điếng người. Nhưng tôi định thần lại và vui vẻ cười: “ Anh
hay thật, trông chẳng có vẻ gì là sát thủ cả, tôi không tin đâu.” Anh chàng
Khampa đưa tay vén một lọn tóc xoã xuống trán, chỉnh lại đầu tóc. Anh bảo tôi,
mắt nhìn phía trước: “ Có thể anh không tin tôi, nhưng tôi không có lựa chọn
nào khác.” Anh ta lại khó nhọc nuốt nước bọt, lúc này tôi mới nhận ra môi anh
bị nẻ. Anh ta nói tiếp: “ Hắn đã giết cha tôi cách đây mười sáu năm. Rồi hắn
biến mất, từ đó tôi đi tìm hắn mãi trên khắp cao nguyên Tây Tạng, suốt mười sáu
năm rồi mà không thấy tăm hơi gì cả”. Tôi nhìn anh ta và chợt thấy thương cảm.
Lúc nào tôi cũng tưởng tượng thấy những quan toà dưới hình dáng những chàng
trai lực lưỡng, mặc áo choàng đen từ đầu đến chân, mang kính đen và lưng đeo
súng. Nhưng con người đang ở cạnh tôi đây lại có một khuôn mặt rầu rĩ, có vẻ
thất thần, ngoại trừ cây dao găm bằng bạc đeo ở thắt lưng, không có gì chứng tỏ
anh là kẻ giết người cả. Mắt nhìn về phía chân trời, tôi có vẻ đang bối rối.
Trong xe giờ chỉ còn nghe tiếng động cơ nổ. “ Bao giờ ta đến Sakar?” anh ta
hỏi, mắt vẫn nhìn phía trước. “ Trước khi đêm xuống. Anh có vẻ nôn nóng tìm kẻ
kia để giết quá nhỉ? “ tôi trả lời anh ta, giọng ngái ngủ, sau khi ném tàn
thuốc qua cửa. Anh ta liếc nhìn tôi, có vẻ vừa nhạo báng vừa khinh rẻ. Còn tôi thấy
không thoải mái, mồ hôi vả ra đầy tay. Lúc này, anh ta lên tiếng: “ Tôi đã kiên
nhẫn chờ đợi hơn mười năm, tôi sẽ không để câu chuyện kéo dài thêm nửa ngày
nữa.” Tôi lại nhìn đăm đăm trước mặt không thay đổi. Trong lúc này, ở phía tây,
về phía chân trời, vẽ ra hình ảnh uốn khúc của một rặng núi, và, ở phía đông,
mặt trời lặn nhuộm đỏ rực cái kính chiếu hậu. Bên cạnh tôi, anh ta nhìn kỹ
quang cảnh, đắm chìm trong suy tư. Vẻ bình thản của anh ta, sự im lặng của anh
ta, sự quyết tâm của anh ta, tất cả mọi thứ nơi anh làm tôi mơ hồ lo sợ. Để xua
tan không khí nặng nề đó, tôi nói: “ Sắp đến rồi đó. Ta sẽ đi con hẻm giữa các
dãy núi, phía đằng kia, và đến ngay Sakar rồi.” “ À” anh ta reo lên, nhưng
tiếng reo chìm trong tiếng động cơ nổ. Chiếc xe phóng hết tốc độ về phía tây,
các dãy núi hiện ra rõ dần. Khi đến khúc quẹo đầu tiên, xe đi vào một con đường
nhỏ chạy ngoằn ngoèo. “ Đến rồi đấy “, tôi bảo anh ta, thở dài nhẹ nhõm. Đêm
xuống, gió thổi rít lên. Chúng tôi đến một ngả rẽ: không còn phân biệt rõ những
gì hiện ra phía bên kia, vì bầu trời và mặt đất hoà trộn với nhau rất nhanh,
khó nhận biết. Anh chàng Khampa vụng về mở cửa, và một loạt gió lạnh thổi ào
vào bên trong, làm cả hai chúng tôi run lên. Anh ta lấy mấy cái chăn và cái hủ
nhôm, đưa mọi thứ lên vai và đi về hướng tôi đã chỉ. Bóng tối nuốt chửng anh
ta, tôi không nhìn thấy nữa. Gió gào thét, tung cát lên cửa kính xe, chừng như
những cú đá trên kính và làm kính rên xiết vì va chạm. Trên trần xe, tấm vải
bạt đong đưa gây ra tiếng động lớn. Ở đây, gió cát quả rất khủng khiếp. Trong
đêm đen, tôi bấm còi hai, ba lần, nhưng tiếng còi bị gió át đi. Tôi tự hỏi sao
mình lại làm như thế, có phải để giúp anh ta can đảm hơn hay để nói lời từ
biệt. Tôi không hiểu chính xác được. Đêm đó, tôi đi tiếp về hướng Ngari. Giữa
những ngọn núi mênh mông, ánh đèn pha trông trơ trọi và đơn độc quá. Sau bốn
ngày ở lại thị trấn Suối Sư tử, tôi lái chiếc xe trống rỗng về lại. Suốt cuộc
hành trình, tôi không còn nghĩ đến anh chàng kia nữa. Tôi chỉ tự hỏi liệu anh
ta có thành công trong việc báo thù cho cha không và tưởng tượng ra nhiều kết
luận khác nhau. Khi xe đến ngã rẻ dẫn đến Sakar, tôi lại đi vào thị trấn một
cách vô ý thức. Mặt trời giữa trưa chói chan và ánh phản chiếu làm con đường mờ
nhạt: xe chạy chiều ngược lại với dòng sông, nước sông xao động tạo thành những
lớp sóng trắng chạm vào những viên sỏi bên bờ, gây ra tiếng động khiến tôi muốn
nổi gai ốc. Sườn núi hai bên không có cây cỏ nào, ngoại trừ vài chùm cây ngấy
lác đác vài nơi, đằng sau thấp thoáng mấy con cừu gầy ốm. Quang cảnh thật là
buồn tẻ. Thỉnh thoảng có một con đường ngắn chạy xuyên qua thị trấn, hai bên có
những ngôi nhà thấp, tường đất màu xám, chẳng chút sinh khí nào, tuồng như xuất
phát từ một thời đại khác. Tôi dừng lại trước một cái quán, đến ăn trưa ở một
quán trà, căn nhà mộc mạc chỉ có vài cái bàn và ghế gỗ, sàn đất lồi lõm không
đều. Tôi gọi một bữa ăn đơn giản, một bình trà đường, mười lăm bánh mì nhỏ có
mùi vị khiến tôi thấy no bụng. Ăn no rồi, tôi nghĩ đến anh chàng sát thủ kia.
Tôi vội vàng. “ Này, chị phục vụ ơi “. tôi gọi lớn. “ Ông cần gì khác không
ạ?”, chị đáp lại, chẳng nhã nhặn chút nào, có lẽ nghĩ rằng tôi muốn đưa chị lên
tàu. “ Vâng, tôi muốn tìm một người, “ “ Ai vậy? “ lần này thì chị cười nói. “
Một Khampa đã đến đây mấy hôm trước.” “ Anh chàng gầy đét phải không? Ban đầu
tôi tưởng hắn ta đến ăn xin.” “ Hắn không ẩu đả với ai chứ?” “ Không hề. Hắn
tìm Martsa. » « Tìm thấy không?” “ Có.” Tôi cảm thấy tim thắt lại
trong khi trước mắt tôi hiện lên hình ảnh của anh Khampa đâm con dao vào ngực
Martsa, máu loang đầy chiếc áo khoác trắng, chừng như có một hoa hồng đỏ rực nở
trên ngực vậy. “ À, để tôi kể cho ông nghe “, chị phục vụ tiếp tục, có vẻ như
vẫn còn muốn nói chuyện, điều dễ hiểu thôi vì trong phòng chỉ có hai chúng tôi.
“ Ngày hôm đó, mặt trời đã lên cao lúc mọi người nhìn thấy chàng Khampa từ
ngoài đường đi tới, với các thứ đeo trên lưng, trong ánh nắng như thiêu như
đốt. Thị trấn không lớn lắm, con đường chính ngắn ngủn đến nỗi ta có thể nhìn
thấy tận cuối đường, và, hơn thế nữa, hai bên cũng không nhiều nhà cửa lắm,
khách qua lại vì thế cũng không nhiều. Hắn có vẻ mệt mỏi vì tôi thấy mắt hắn đỏ
rực. Hắn ngập ngừng bước vào và đến ngồi gần cái cửa sổ nhìn ra đường. Hắn đưa
mắt nhìn về phía tôi, về phần mình, tôi để ý thấy môi hắn bị nẻ, áo quần sờn
hết. Cái làm cho hắn nổi bật chính là con dao găm! Tôi quan sát hắn, tay cầm
bình thuỷ, từ nơi cách hắn hai cái bàn, hắn hỏi tôi:” Có ai tên là Martsa ở nơi
đây không?” Vậy là hắn đi tìm người, không phải đến đến ăn xin như ban đầu tôi
nghĩ. Tôi vạch đường đi giữa các cái ghế, tay cầm bình thuỷ, đến rót cho hắn
một cốc nước trà pha chút bơ, rồi trả lời hắn: “ Vâng, phía tây thị trấn có một
người tên là Martsa, ông ta có một quán tạp hoá nhỏ.” “ Có phải hắn từ thôn
Gonjo đến không? Trạc ngũ tuần? “ Tôi muốn cười khi nghe vậy. “ Ông muốn tìm
người nhà phải không? “ Nhưng hắn nôn nóng lặp lại câu hỏi: Có phải hắn từ thôn
Gonjo đến không?“ Tôi thấy hắn có vẻ mệt mỏi. “ Tôi không biết ông ta từ đâu
tới, nhưng đúng là khoảng năm mươi tuổi. Ông ấy mở quán từ hai năm nay. Ổng ta
hay đến tu viện cầu nguyện để quay cối xay. Một phật tử thuận thành. Ở đây ai
cũng biết ông ta hết. “ Mặt đỏ bừng, chàng Khampa thở nhanh. “ Ông hài lòng vì
đã tìm ra người muốn tìm rồi chứ gì? “ tôi hỏi. Bỗng nhiên mắt anh ta đẫm lệ,
anh bật khóc và rên khẽ. Nước trà trong ly đã nguội, không bốc khói nữa. “ Cuối
cùng tôi cũng tìm thấy! “ anh reo lên. Ngạc nhiên khi thấy hắn hoảng loạn như
vậy, tôi đến ngồi trước mặt, phía bên kia bàn, trên mặt nước trà trong ly có
một màng đen mỏng. Cuối cùng, anh ta bình tĩnh lại, lau mắt và quay đầu nhìn ra
ngoài. Không có nhiều người lắm, thưa thớt vài người đi qua không vội vàng gì,
với bước đi khoan thai thường thấy ở đây. Khi anh ta quay lại, anh thấy tôi
nhìn kỹ anh, vội cầm ly lên và uống cạn ly ngay. “ Anh không giống những Khampa
khác”, tôi nói với anh. Mặt anh ta nhăn lại một chốc, rồi anh lại uống hết
những giọt trà còn sót lại trong đáy ly. Tôi rót thêm. “ Chị có bột nhào Tây
Tạng không? “ Tôi trả lời có, anh ta nói tôi làm một chén, tôi đi khuất sau tấm
màn nhà bếp. Khi chàng Khampa nhìn thấy chén bột đầy, anh chảy nước miếng, và
liếm đi, lưỡi vàng và để lộ những giọt nước bọt bên rìa. Tôi tránh lui. Anh ăn
hết ngay rồi hỏi tôi: “ Tôi để lại mấy cái chăn trong góc ít lâu được chứ? “
Tôi gật đầu. “ Vâng, khi nào tìm ra người thân, anh về lấy lại.” Vậy là anh ta
ra đi. Ông thấy đấy, đồ đoàn của anh ta vẫn còn đây, nhưng anh ta vẫn không trở
lại. Nếu còn đây tức là anh ta đã bỏ đi nơi khác.” Đúng là đồ đoàn của anh ta.
Anh ta có thể đi đâu được nhỉ? “ Còn anh chàng Martsa vẫn còn đây chứ? “ tôi
hỏi. “ Vâng, ông ta vẫn trông coi cái quán đó. Đầy linh cảm khốc liệt, tôi tự
hỏi phải chăng Martsa đã khử kẻ định giết mình. Tôi thuộc loại người hay nôn
nóng, lúc này tôi thấy cần phải uống, và tôi lo lắng đến nỗi thấy như đầu sắp
nổ tung ra. Vợ tôi thường khuyên nhủ tôi với cách nói người Tây Tạng: “ Đừng
kiếm chuyện, tránh xích mích đi.” Và nàng có lý. “ Cho tôi một chai bia.” “ Anh
muốn loại nào?” “ Lhassa “ Lúc từ trong cổ họng tôi bia đã trôi xuống bụng, tôi
cảm thấy bớt căng thẳng, tôi tự nhủ mình phải đi tìm kẻ giết người đó. Ngay lúc
đó, một người bị thương nhẹ ở chân đến ngồi trước mặt tôi, gọi một thùng bia
đại mạch. “ Ai giúp anh chăn cừu?” chị phục vụ hỏi. “ Không phải chuyện của cô,
đi lấy bia cho tôi đi.” Tôi đoán đây là người chăn cừu. Anh ta cười với tôi,
tôi mời anh điếu thuốc, chúng tôi bắt chuyện với nhau. Anh ta đã nhìn thấy anh
chàng Khampa. “ Ban đầu, tôi không nghĩ đó là một Khampa,” anh ta giải thích
với tôi. “ Tôi chăn bò và cừu, tôi phải gấp gáp vì tôi đang mắc tiểu. Anh biết
đó, không thể chịu nổi, anh cứ thấy như bàng quang sắp vỡ. Anh sẽ dễ thông cảm
với tôi hơn, tôi cho đàn thú dừng lại, tôi trèo lên đằng sau một căn nhà, dưới
chân núi. Tôi mắc tiểu đến mức thấy như kiến bò khắp người, đến khi xong việc
tôi mới nhìn ra xung quanh. Lúc này tôi mới thấy có người nằm dưới một tảng đá,
như đang ngủ, tay nắm lại. Anh sẽ không tin tôi, nhưng tôi nghe anh ta ngáy.
Tôi nghĩ anh ta đi hành hương, và không để ý đến nữa. Nhưng khi tôi đi xuống để
gọi bò, tôi nghĩ mình phải đánh thức anh ta. Khi tôi đi ra đường, anh ta đã
thức dậy và đến đứng trên tảng đá. Mặt trời vừa mọc trên đỉnh núi, một tia nắng
vàng rực chói đầy thân hình tôi, gieo cảm tưởng là hơi nóng dễ chịu. Tôi thấy
anh ta lười biếng duỗi tay, hít thở hơi dài. Anh nhìn tôi thật kỹ. Vài chục con
bò tiến bước trên đường chậm rãi, tôi đã buộc vài sợi len lông cừu quanh cánh
tay trái, và từ cánh tay phải, một cuộn chỉ quấn quanh. Thỉnh thoảng, vài con
bò đi ra khỏi đường, tôi phải la lớn rồi nhặt lấy vài cục đá ném về phía mấy
con đang lạc tới con dốc bên kia đường. Chúng hoảng sợ chạy một lát rồi vẫy
đuôi trở về nhập đàn. Chàng Khampa tiếp tục quan sát tôi, có lẽ anh ta hài
lòng. Sau đó, tôi thấy anh ta cầm lấy cái hũ nhôm đi xuống đường, từ nơi đó,
anh ta tiến vào con dốc thẳng đứng, và chậm rãi đi qua từng tảng đá cho đến tận
bờ sông. Con sông chảy mạnh , tiếng sóng che khuất mọi tiếng động khác. Anh ta
cởi áo sơ mi, phần trên cơ thể để trần, anh vốc nước vào lòng bàn tay để rửa
mặt và cổ, rồi anh lấy áo lau người. Cuối cùng, sau khi nhìn quanh mình, anh
chọn một viên đá màu xanh phẳng lì, bỏ một ít nước và bắt đầu mài cây dao găm
và vẫn tiếp tục vỗ nước vào trên viên đá, tiếng động anh gây ra khoả lấp cả
tiếng nước chảy. Cuối cùng anh bỏ con dao vào cái túi, và leo lên đường trở
lại. “ Và sau đó?” “ Sau đó à? Không có sau đó. Tôi không gặp lại anh ta nữa.”
Khi anh chăn cừu kể chuyện xong, tôi đã uống hết ba chai bia. Mặt trời buổi
chiều vẫn còn nóng trên con đường, bên ngoài không có ai, đường vắng tanh, Tôi
có một cảm giác say nhẹ và đau ở chân, và thấy mất thăng bằng, Tôi chạy thẳng
về phía tây thị trấn, cho đến quán tạp hoá của Martsa. Quán nằm trên đường cái,
trong một khu nhà bên góc, bên cạnh có một tiệm ăn của gia đình nhà Sichuanais.
Tôi càng tới gần quán, tôi càng thấy nóng trong người. Tôi có cảm giác mặt đang
bốc lửa, như món thịt quay trong lò, không khí có vẻ nặng nề, khó thở. Tôi có
cảm tưởng là kẻ giết người chính là tôi, bây giờ đây, hoặc đúng hơn, tôi đang
làm lại quá trình của tên giết người. Tôi đến tận cửa sổ của quán, nhưng tôi
chỉ thấy, ngồi phía bên phải, một phụ nữ chừng ba mươi tuổi, ăn mặc bình
thường, da xanh nhợt. Nhìn thấy tôi, bà cười hỏi: “ Anh muốn gì?” Tôi nhìn bà
một lúc, như ngây dại, trước khi định thần lại. “ Đây đúng là quán của ông
Martsa phải không?” tôi nhẹ nhàng hỏi bà ta. Bà đứng dậy, và đến lượt bà hỏi
lại tôi, vẻ e ngại : “ Ông quen chồng tôi à? “ Tôi đáp: “ Không. “ “ A…” bà vợ
ông Martsa nói qua tiếng thở dài. “ Cách đây vài hôm cũng có người đến tìm ông
ấy, và từ đó hắn ta tỏ ra hoảng loạn. “ “ Ông ấy còn đây không? “ “ Không, ông
đi tu viện, khoảng một tiếng nữa thì về. Mời ông vào uống ly trà.” Tôi đi quanh
nhà, vào nhà bằng cửa sau, bên trong, có hai cái giường gỗ, với một cái bàn thấp
ở giữa. Căn phòng tối tăm, nhỏ xíu, nơi góc chất đầy một chồng các tông, một
cái tủ lớn chắn giữa phòng chia ra hai phần, một bên là cửa hàng, một bên là
nơi ở. “ Nghe giọng nói thì ông không phải dân vùng Kham. “ “ Không, tôi dân ở
đây.” “ Và chuyện gì đã xảy ra với chàng Khampa tới đây hôm nọ?” “ Anh ta ở lại
một lát, rồi bỏ đi vừa khóc.” Bà trả lời, rồi lấy ít bơ bỏ vào nước trà. “ Tại
sao hắn ta khóc? “ tôi hỏi. Bà vợ của Martsa không trả lời tôi mà lại hỏi tôi
câu khác: “ Ông là bạn của chàng Khampa đó sao? “ “ Không phải, tôi là Tsering
Norbu, tôi cùng đi với anh ta đến đây trên cùng chiếc xe. Bà rót trà tiếp cho
tôi, tôi thấy dễ chịu hơn. “ Đây rồi.” có tiếng nói trẻ con từ bên ngoài, giọng
nói trong vắt làm tôi nổi da gà và khiến tôi khó thở. Đấy là một cậu bé khoảng
ba hay bốn tuổi, cậu ngạc nhiên nhìn tôi khi bước vào trước khi vội vã sà vào
tay mẹ. “ Ông ta đến tìm ba con. Ông ấy đâu?” Hơi sợ, thằng bé nhỏ giọng đáp: “
Ba về ngay thôi.” Cửa lại mở ra, một người đàn ông có vẻ hơi khòm, tóc muối
tiêu, trán đầy nếp nhăn bước vào. Nhìn thấy tôi, ông ta lùi lại một chút. Ông
ấp úng: “ Ông… ông… ông… ông là …” “ Tsering Norbu.” Martsa tái mét, môi run
rẩy. “ Martsa, anh làm sao vậy?” bà vợ hỏi. “ Không có gì, anh đi quá mau. Ông
tới đây làm gì?” “ Tôi đến hỏi ông có phải cách đây mấy hôm có một anh Khampa
đến đây tìm ông không.” “ Vâng, anh ta nói tới tìm tôi. Nhưng anh ta nhìn kỹ
tôi rồi lắc đầu và nói anh ta đã lầm, không phải tôi. Tôi có mời anh ta ly trà,
anh ta vừa khóc vừa ra đi. Tôi không gặp lại nữa.” “ Tôi phải gặp anh ta. Tôi
sẽ đi tìm. Xin chào.” “ Chuyện gì xảy ra vậy?” Tôi không trả lời. Tôi nghĩ mình
đã mất nhiều thời gian, tốn nhiều xăng, phải ra đi càng sớm càng tốt. Khi chiếc
xe tải rời thị trấn Sakar, tôi nghĩ mình sẽ gặp lại anh chàng Khampa giết người
kia, nhưng, trên đường, một chiếc lốp xe bị nổ, tôi nằm trong ca bin và ngủ
thiếp đi. Bà vợ của Martsa đã ra khỏi phòng với thằng bé, còn lại tôi đối mặt
với Martsa, không khí trong phòng như cô đặc lại. Toàn bộ sự chú ý của tôi tập
trung vào bàn tay phải, tôi nắm chặt cây dao găm. Tôi xua hết ý nghĩ trong tâm
trí, chỉ còn trong đầu một ý kiến: giết Martsa để trả thù cho chàng Khampa và
cha anh ta. Tôi cảm thấy trong lòng bàn tay những dấu khắc nổi trên cán con dao
găm và thấy dễ chịu. Lúc đó Martsa nói với tôi: “ Ngày nào tôi cũng cầu xin Đức
Phật tha thứ cho những lỗi lầm của tôi. Tôi không sợ hãi. Có điều là tôi chưa
hề nghĩ là ông đến nhanh vậy. Mạng đền mạng. Luật trời là vậy. Ông làm đi. “
Trong một tia chớp lạnh lùng, mũi con dao găm đâm thẳng vào ngực Martsa đang
đứng dựa vào tưởng. Máu chảy thành nguồn từ vết thương dọc theo cán dai ngập
đầy bàn tay tôi, một thứ máu nóng và nhầy. Ánh mắt của Martsa tỏ ra bình thản.
Sau khi gắn hết sức để cười với tôi, anh ta trút hơi thở. Tôi rút con dao ra,
Martsa trông như một đôi ủng bằng cỏ đặt nằm đó, trong góc tường. Ánh sáng mặt
trời từ bên ngoài chiếu vào thật chói chan, một thứ ánh sáng trắng khó chịu.
Thôi, phải thay lốp xe đã, tôi tự nhủ. ——- tức là người gốc gác tỉnh Kham, ngày
nay nằm giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải.
THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới
thiệu ( tháng 1/2024)
Nguồn: http://www.chinese-shortstories.com/Nouvelles_de_a_z_Tsering_Norbu_L_assassin.htm