Tết và Xuân, Xuân và Tết, thời điểm kỳ lạ trong một
năm. Vừa trông chờ vừa mong đừng đến. Vừa lưu luyến rét đông vừa háo hức xuân
ấm. Vừa khép kín đoàn tụ gia đình vừa chan hoà xôn xao lễ hội. Vừa lặng lẽ hoài
niệm chuyện riêng tư vừa hân hoan cùng nhau “nâng chén ta chúc nơi nơi”. Mỗi
người một tâm trạng nên mỗi người một cách đón Xuân. Có cách gì vui Xuân,
thưởng Xuân, hưởng Xuân không ồn ào mà vẫn rộn ràng vang vọng, không kiểu cách
mà vẫn phong lưu ân tình? Ai kia du Xuân vãng cảnh, kẻ nọ trở gót quy cố hương.
Cũng chỉ cố tìm thanh bình trong tâm tưởng. Nhưng e chừng sắm sanh chuẩn bị tư
trang hành lý cũng nhiêu khê lắm. Chi bằng ngồi yên mà cho tâm trí bay bổng. Mở
trang sách, đàm đạo với tiền nhân. Thử tìm đến vài nhà thơ ở nhiều đất nước
khác nhau.
Nếp sống, nếp nghĩ có
khác, và tình yêu dù muôn màu muôn vẻ nhưng vẫn có mẫu số chung. Bởi thế cho
nên: Ngày Xuân ngồi đọc thơ tình, Thơ ai sao thấy có mình ở trong.
Chỉ cần nói với nhau một điều. Thường thơ nhiều ẩn dụ, biểu tượng, hình ảnh, có
khi không cần giải bày minh bạch.
1.
MÙA THU
Nghe tên Boris
Leonidovich Pasternak (Борис Леонидович Пастернак) mọi người đều nghĩ đến Bác
sĩ Zhivago, cuốn truyện nổi tiếng với số phận ly kỳ không kém gì tác giả của
nó. Khi tác phẩm ra đời (năm 1955), dưới áp lực những lời công kích, phê phán
của giới văn học và chính trị, không một nhà xuất bản nào nhận bản thảo. Phải
chờ đến một năm sau, tác phẩm mới được xuất bản tại nước Ý, bản tiếng Nga và
bản dịch tiếng Ý! Ngay sau đó, cuốn truyện được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác,
xuất bản tại nhiều quốc gia khác (tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch, Phần Lan…) Bản tiếng Anh đầu tiên do Max
Hayward và Manya Harari dịch, xuất bản vào tháng 8 năm 1958, là bản dịch
tiếng Anh duy nhất được biết trong suốt 50 năm và trong hai năm 1958,
1959 đứng đầu danh sách best-seller của báo The New York Times trong 26
tuần. Còn bản gốc, tất nhiên bằng tiếng Nga, chỉ được in tại Liên Xô lần đầu
tiên vào năm 1988! Độc giả Việt Nam, may mắn hơn, đã thưởng thức
tuyệt phẩm này qua bản dịch “Vĩnh biệt tình em” của Nguyễn Hữu Hiệu, do Tổ hợp
Gió xuất bản tại Saigon năm 1974.
(Nói thêm một chút về chuyện giải Nobel. Giải Nobel về
văn học được trao cho ông vào năm 1958, một sự kiện làm tốn bao nhiêu giấy mực
từ thời điểm đó đến tận hàng chục năm về sau. Phản hồi nhanh chóng của Boris
Pasternak khi được tin, là bức điện tín gửi ngay sang Thuỵ Điển: “Vô cùng biết
ơn, cảm động, tự hào, ngạc nhiên, bối rối”. Tiếp theo là sự công kích, phản đối
nặng nề, cay độc, trực diện, việc khai trừ Boris Pasternak ra khỏi Hội Nhà Văn
Liên Xô, và sự đe doạ nếu ông đi nhận giải thưởng sẽ không được phép trở về quê
hương. Ông đành phải gởi bức điện tín thứ hai: “Nhìn nhận ý nghĩa của sự trọng
vọng này trong xã hội tôi đang sống, tôi buộc phải từ chối giải thưởng không
xứng đáng được trao cho tôi. Xin đừng xem sự từ chối tự nguyện của tôi là một
hành động xúc phạm.” Viện Hàn Lâm Hoàng gia Thuỵ Điển tiếp nhận thông tin này
bằng một văn bản chính thức trong đó nêu rõ: “… Tất nhiên sự từ chối này không
ảnh hưởng đến hiệu lực của giải thưởng. Chỉ có điều là Viện Hàn Lâm lấy làm
tiếc phải thông báo là lễ trao giải không thể diễn ra.” Hai mươi chín năm
sau khi Ông qua đời, tháng 12 năm 1989, con trai của Boris Pasternak là nhà văn
Evguenii đã được mời sang Thuỵ Điển nhận giải thưởng thay ông, với những nghi
thức long trọng của một lễ trao giải chính thức.)
Năm 1914, ông in tập thơ đầu tiên “Sinh đôi trong đám mây”, gây
được nhiều thiện cảm trong công chúng. Năm 1922, ông cho ra đời tập thơ “Chị
tôi, cuộc đời”, được các nhà thơ đương thời ( Maïakovski, Tsvetaïeva,
Mandelstan, Ehrenburg ) tán thưởng, ông nhanh chóng nổi tiếng từ đây. Một năm
sau ông xuất bản tiếp cuốn “Những chủ đề và biến tấu”, đã viết từ năm 1918, nay
mới công bố. Và những năm sau đó ông lần lượt cho xuất bản nhiều thi tập khác.
Ngay trong cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, ông dành hẳn phần cuối truyện để
đưa vào 25 bài thơ dưới nhan đề Thơ Yuri Zhivago. Thơ của Yuri Zhivago hẳn là
viết cho Lara, nhân vật nữ trong tiểu thuyết, hoá thân của Olga Ivinskaya, tình
yêu lớn của tác giả những năm cuối đời.
2.
TIẾNG EM CƯỜI
(YOUR LAUGHTER)
Pablo Neruda bắt đầu làm
thơ từ lúc mới mười ba mười lăm tuổi. Thi phẩm đầu tiên là “Crepusculario”
(Hoàng hôn) in năm 1923 ở tuổi 19. Từ thời điểm này cho đến khi qua đời, ông đã
cho xuất bản hơn 40 tập thơ với những kích cỡ, tầm vóc, ngôn ngữ, bút pháp đa
dạng, lạ lùng, độc đáo, đôi khi khó hiểu, khó dịch sang ngôn ngữ khác. Ông viết
về đủ mọi đề tài, hướng đến độc giả đủ mọi lứa tuổi, viết về tình yêu, về những
biến cố lịch sử, về chiến tranh, về đất nước, con người, thiên nhiên, về những
sự việc tầm thường…
Nhưng nói đến thơ Pablo Neruda là phải nói đến thơ
tình, bởi những bài thơ tuyệt tác nhất của ông, được độc giả tìm đọc, nhắc đến
và yêu thích chính là những bài thơ tình.
Đó là thi phẩm “Veinte poemas de amor y una cancion
dêsperada” (Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng), xuất bản năm 1924,
được cho là ông viết tặng người yêu đầu đời là Laura Arrue sau cuộc tình dang
dở. Tập thơ nhắc đến tình yêu với nhiều uyển ngữ, ẩn dụ, nhắc đến người tình
với thi vị mộng mơ và với cả trần tục đời thường, có hơi hướm tình dục, có mái
tóc, làn da, nét môi, mà cũng có cả vú, ngực, đùi, háng! Pablo Neruda nhanh
chóng nổi tiếng và tác phẩm liên tục được in lại hàng triệu bản. Chính tác giả
cũng bày tỏ sự ngạc nhiên “không hiểu tại sao chỉ là những bài thơ Tình sầu,
Tình buồn mà có nhiều người thích đến thế, mà có nhiều bạn đọc trẻ yêu thích
đến thế”.
Về sau, để tặng vợ là
Martilde Urrutia, ông in tiếp thi phẩm “Cien sonetos de amor” (Một trăm bài
đoản thi tình yêu), khắc hoạ chân dung tình yêu muôn màu muôn vẻ, không lặp
lại, không nhàm chán.
( Thơ Pablo Neruda viết bằng tiếng Bồ Đào Nha. Bản dịch
bên trên dựa vào bản tiếng Anh: YOUR LAUGHTER)
Cuộc đời Jaroslav
Seifert kéo dài hơn 3/4 thế kỷ XX trên một đất nước trải qua nhiều chế độ chính
trị khác nhau: Đế quốc Áo Hung ( đến 1918 ), Cộng hoà Tiệp Khắc (1918 – 1960),
Cộng Hoà XHCN Tiệp Khắc (1960 – 1990), Cộng Hoà Liên Bang Tiệp Khắc (1990 – 1992),
Cộng Hoà Séc – Czech (từ 1-1-1993).
4. KHÔNG CÓ GÌ HAI LẦN
( NOTHING TWICE )
Bắt đầu đăng thơ từ năm
22 tuổi trên phụ trang hàng tuần của nhật báo Dziennik Polski và tiếp tục phổ
biến sáng tác của mình trên các nhật báo và tạp chí. Từ năm 1952 (xuất bản tập
thơ đầu tiên) đến lúc qua đời vào năm 2012, đã lần lượt cho phát hành gần 20
thi phẩm, trong đó một số lớn được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Tại buổi yến tiệc tổ chức sau lễ trao giải tại Tòa Thị
chính Stockholm vào tối 10/12/1996, khi Quốc vương Thụy Điển Karl Gustaf phát
biểu chúc mừng bà bằng tiếng Pháp), WISLAWA SZYMBORSKA đáp lại ngắn
gọn (cũng bằng tiếng Pháp):
“Không ai có thói quen được nhận giải Nobel, và cũng
không ai có thói quen bày tỏ sự biết ơn của mình về việc đó. Trong tiếng mẹ đẻ
của tôi, cũng như trong những ngôn ngữ khác, có nhiều từ đẹp để lựa chọn. Nhưng
với tôi, vào dịp này, từ đơn giản nhất là nghiêm túc và có ý nghĩa nhất: Cám
ơn merci- dziêkujê).”
Từ tác phẩm bước ra đời thường, WISLAWA SZYMBORSKA vẫn
giữ phong cách riêng như thế.
Lặng lẽ và khiêm nhường, thông minh và sáng tạo,
WISLAWA SZYMBORSKA ở tuổi ngoài tám mươi vẫn tiếp tục sáng tác. Năm 2002, bà
xuất bản tuyển tập “Khoảnh khắc”gồm 23 bài thơ. Cùng năm đó, tác phẩm “Bài đọc
nhiệm ý – Văn xuôi” ra đời, tập hợp những bài phê bình của bà. Năm 2005 thêm
một tuyển tập thơ nữa: “Dấu hai chấm”. Vẫn bản tính ưa hài hước châm biếm mà
không hề hời hợt, xuê xoa. Vẫn khuynh hướng chuyển hóa những nhận xét qua kinh
nghiệm cá nhân thành những suy nghiệm về phận người mong manh, về sự hiện diện
của cá thể nhỏ nhoi giữa bao la vũ trụ. Khó tìm thấy một nhà thơ nào khác có
nét tương đồng với bà về ngôn ngữ và tư tưởng. Phải chăng vì điều này mà thơ
của WISLAWA SZYMBORSKA đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng khác nhau trên thế
giới?
Ngày 17/1/2011 Tổng thống Ba Lan Bronislaw Komorowski
đã trao tặng bà phần thưởng cao nhất của nhà nước: Huân chương Đại bàng trắng
“để ghi nhận những cống hiến của bà cho nghệ thuật Ba Lan và những thành tựu
xuất sắc của bà trong lĩnh vực văn học”.
WISLAWA SZYMBORSKA từng tâm sự rằng khi làm thơ bà chỉ dùng bút chứ không bao giờ sử dụng máy vi tính. Nhất thiết phải có một khung cảnh thật riêng tư. “Tôi không tưởng tượng được có nhà văn nào mà không tìm cho mình thanh bình và yên lặng. Thơ không thể ra đời giữa tiếng ồn, trong đám đông hay trên xe buýt. Phải ở trong bốn bức tường và tin chắc là chuông điện thoại sẽ không reo”. Có khi bà đang viết một bài, rồi để đó bắt đầu một bài khác. Có khi bà làm hai bài cùng một lúc. Số bài thơ bà viết nhiều hơn số đã in. Thơ viết vào buổi tối, sáng hôm sau đọc lại và có thể sẽ cho vào sọt rác để sẵn ở trong phòng. Còn bài thơ mà bà hài lòng nhất thì chính là bài bà đang định viết lúc này đây. Bà thích nên mới quyết định khai bút, còn khi nó đã thành hình, đã được in vào sách thì hãy để nó tự xoay xở lấy. Còn vì sao lại làm thơ ư? Chẳng phải là một sứ mạng to tát gì. Vào một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, khi đã qua tuổi ấu thơ, bạn sẽ bước vào một thế giới đầy rủi ro và trách nhiệm cá nhân, bạn sẽ nghiệm ra rằng chẳng thể làm được gì để tránh điều đó. Cứ làm thơ và sẽ thấy. Có khi bạn sẽ tự biết đó là thơ tồi, mọi người sẽ chối bỏ nó. Nhưng cũng có khi bạn thành công.
Nét nổi bật trong thơ WISLAWA SZYMBORSKA là ngôn
từ, giản dị, cô đọng mà chính xác; bà thường xuyên sử dụng sự hài hước, châm
biếm, ngay cả nghịch lý, để làm nổi bật nội dung sâu sắc. Đề tài ưa thích là
cuộc sống thường ngày, được kể lại một cách tinh tế, lắm khi mỉa mai, khởi đầu
cho những chiêm nghiệm có màu sắc triết lý.
WISLAWA SZYMBORSKA qua đời ngày 1/12/2012. Trong
giá lạnh, tuyết rơi trắng trời, ngày 9 tháng 2 năm 2012, tại thành phố Krakow,
nơi bà là công dân danh dự, hơn tám ngàn người đã đến vĩnh biệt bà, trong số đó
có Tổng thống Cộng hòa Ba Lan Bronislaw Komorowski cùng phu nhân, Chủ tịch Hạ
viện Ewa Kopacz, Chủ tịch Thượng viện Bogdan Boruszewicz, Thủ tướng Donald
Tusk, nhiều bộ trưởng và các quan chức Ba Lan, đại diện các cơ quan ngoại giao
đoàn, các nhà thơ, nhà văn, dịch giả, các nghệ sĩ, bạn bè và những người mến
mộ. Theo ý nguyện của bà, đúng 12 giờ trưa, bình đựng hài cốt của bà được đưa
từ nhà tang lễ tới khu mộ gia đình, nơi bố mẹ bà đang an nghỉ.
Bài “Không có gì hai lần” giới thiệu trên đây đã được
phổ nhạc và ngay trong tang lễ của Bà, giai điệu bài này đã ngân vang từ trên
tháp chuông nhà thờ Mariacki, một nhà thờ cổ kính vào bậc nhất Châu Âu, ở trung
tâm cố đô Krakow, thay vì tiếng chuông hiệu vào giờ này hằng ngày.
(Bài thơ dịch theo bản tiếng Anh thay cho nguyên tác
tiếng Ba Lan)
Sinh ra cùng với thế kỷ XX và sống đến 3/4 thế kỷ này,
JACQUES PRÉVERT đã để lại cho đời những dấu vết sâu đậm. Năm 1992, mười lăm năm
sau khi Ông qua đời, toàn bộ tác phẩm của Ông đã được in trong Tủ sách Pléiade,
một tủ sách “sang trọng” dành cho những tác giả mà tài năng và danh tiếng đã
được thừa nhận. Tập thơ Paroles (Lời nói) xuất bản lần đầu vào tháng 5 năm
1946, chỉ một tuần sau đã in thêm 5000 bản, đến nay vẫn còn tái bản và tính ra
đã có hơn hai triệu bản in. Khắp nơi trên đất Pháp hiện nay có hàng trăm trường
học mang tên Ông, chỉ tính riêng trường trung học (collège / lycée) có đến 309
trường.
Ngay từ các tập đầu tiên, thơ JACQUES PRÉVERT đã chinh phục người đọc mọi lứa tuổi bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Ông không coi trọng cú pháp, vần luật, diễn đạt nhẹ nhàng, hồn nhiên, có khi như là văn nói. Cái nhan đề PAROLES (Lời nói) cũng phần nào hàm chứa ý đó. Mà nhìn kỹ một chút thì PAROLES chính là anagramme (sắp xếp, đảo lộn thứ tự các chữ cái) của LA PROSE (văn xuôi) đó thôi. Cái xu hướng tự do của Ông trước hết thể hiện ở chỗ trong cùng một tác phẩm, Ông đưa vào đủ loại thơ: thơ có vần, thơ tự do, thơ kể chuyện, trữ tình, công kích, có bài như một tiểu phẩm (saynète), có những bài rất ngắn (3 câu, 4 câu), có bài dài trên 30 trang (La crosse en l’air / Gậy quyền chỉ lên trời).
JACQUES PRÉVERT viết như
một nhà ảo thuật của ngôn từ nhưng điều này không có nghĩa là thơ Ông dễ dãi,
hời hợt. Là người sớm vào đời lao động kiếm sống, Ông tỏ ra đồng cảm với những
cảnh đời khốn khó, chia sẻ với những thân phận bị áp bức, bóc lột. Ông lớn
tiếng chống lại những thế lực tước đi tự do và hạnh phúc của con người, và, ở
đây, không có đề tài nào là cấm kỵ tabou) đối với Ông.
Đó là tình cảm nhẹ nhàng
tinh khiết của những đứa trẻ ôm hôn nhau “trong ánh sáng chói lòa của mối tình
đầu tiên” (Les enfants qui s’aiment / Những đứa trẻyêu nhau), tình yêu của đôi
trai gái cùng mới mười lăm tuổi phải “ăn gian” cộng tuổi cả hai để nói chúng ta
đã ba mươi tuổi rồi chúng ta đã có quyền yêu nhau. (Embrasse-moi / Hãy ôm hôn
em). Thơ tình của JACQUES PRÉVERT bao giờ cũng mượt mà trau chuốt, kể cả những
bài rất ngắn. ALICANTE chẳng hạn. (Alicante là tên một thành phố hải cảng của
Tây Ban Nha, cũng là tên một thứ rượu vang nổi tiếng sản xuất ở đây). Có thể
nói Jacques Prévert đã vận dụng sở trường về hội họa và kịch nghệ trong bài
này. Bài thơ mở đầu với hình ảnh một bức tranh tĩnh vật :
JACQUES PRÉVERT đã đi qua thời đại đầy biến động của
Ông với một thái độ tỉnh táo, không gò mình trong khuôn phép của trường phái
nghệ thuật, không để bị ràng buộc bởi xu hướng chính trị, tự khẳng định mình
qua nhiều hình thức biểu hiện và nổi trội hơn cả vẫn là thơ vì với Ông “Thơ ca
có mặt ở khắp nơi cũng như Thượng đế chẳng có ở đâu cả.Thơ ca là một trong
những biệt danh xác thực nhất, hữu dụng nhất của cuộc đời” (La poésie est
partout comme Dieu n’est nulle part. La poésie, c’est un des plus vrais,
un des plus utiles surnoms de la vie”. Thế giới thơ của JACQUES PRÉVERT, cũng
như chính con người JACQUES PRÉVERT, bao giờ cũng tự do, tự do như khí
trời, tự do như mây gió, tự do như hoa cỏ trong ĐỒNG XANH ( pré vert ) .
Thơ của JACQUES PRÉVERT còn được chắp cánh bay xa khi
chuyển thành nhạc. Bài thơ đầu tiên được phổ nhạc là bài Les animaux ont des
ennuis, phần nhạc do một người bạn gái thuở thiếu thời của Ông là Christiane
Verger viết từ năm 1928. Về sau, rất nhiều tác giả khác đã sáng tác nhiều ca
khúc bất hủ từ thơ của Ông, ngoài Joseph KOSMA (1905-1969) được nhiều người
biết còn có thể kể Louis Bessières, Hanns Eisler, Wal-Berg, Georges Auric, Jo
Warfield, Henri Crolla, Sebastien …. Mấy chục năm nay những bài này đã được
nhiều thế hệ ca sĩ trình bày như Agnès Capri, Marianne Oswald, Germaine
Montero, Fabien Loris , nổi tiếng hơn là Juliette Gréco, Yves Montand,
Mouloudji, les frères Jacques, Edith Piaf và hiện nay còn có Jean Guidoni,
Catherine Ribeiro, Djemel Charif.
Bài LES FEUILLES MORTES
ban đầu là một bài thơ, sau được phổ nhạc và có sức lan toả rộng khắp qua những
giọng ca nổi tiếng của từng thế hệ. Bài hát đã từng được dịch sang tiếng Anh
(AUTUMN LEAVES hoặc DEAD LEAVES), được trình bày sớm nhất bởi Nat King Cole, và
sau đó, Frank Sinatra.
(Bài dịch thơ bên trên được dịch từ nguyên tác tiếng
Pháp)
THÂN TRỌNG SƠN