TRẦN THỊ NGUYỆT MAI
Chúc Mừng Quán Văn đạt
tới số 100
Thấm thoát Quán
Văn đã ra được trăm số báo.
Còn niềm vui nào
hơn!
Nhớ lại hồi cuối
năm 2011 khi về Việt Nam thăm gia đình, anh Trần Hoài Thư nhắn tôi đến thăm anh
Nguyên Minh và mua ủng hộ Quán Văn khi ấy tên tuổi hãy còn mới toanh vì vừa mới
chào đời. Anh Nguyên Minh vui vẻ giải thích cho tôi hiểu vì sao anh đánh số từng
kỳ với ba con số (001) chứ không phải chỉ vẻn vẹn một con số duy nhất như các tạp
chí trước đây: “Anh mong Quán Văn sẽ sống đến 3 con số, nghĩa là ít nhất phải
ra đến số 100, chứ không vắn số như Ý Thức hồi xưa.”
Nói đến tờ “Ý Thức”
thì tôi không xa lạ. Vì ngay từ năm 1972, khi làm bạn với Thanh Yên, tôi đã thường
nghe Yên nhắc đến: “Anh Ngạn (nhà thơ Hồ Thanh Ngạn, anh của Yên) cùng các bạn làm
báo Ý Thức. Nhà Yên là nơi mấy anh đến họp, thảo luận về tờ báo...” Mãi đến sau
này khi quen với anh Nguyên Minh tôi mới được biết chính tại căn nhà này, sau khi
cùng chị T. lấy số báo Ý Thức đầu tiên từ nhà in ra về, trời mưa, xe đang đi ngon
trớn bỗng bị chết máy, anh Nguyên Minh đã bỏ chị T. lại dọc đường cùng với chiếc
xe đình công bất tử đó. Ôm chặt gói báo trong tay, anh gọi tắc-xi đến nhà Thanh
Yên dưới chân cầu Phan Thanh Giản nơi các anh chị khác đang chờ... Sau đó nhà viết
kịch Lữ Kiều (Bác sĩ Thân Trọng Minh) được nhờ đi đón. Hỏi anh Nguyên Minh bất cứ
điều gì về tờ báo, từ font chữ, màu bìa, v.v... anh đều nói vanh vách, nhưng
không thể nhớ nổi nàng tóc uốn hay tóc thề hoặc màu áo người yêu mặc hôm ấy để anh
“Minh lớn” dễ nhận dạng tìm người!!! Trên đời này, có lẽ anh là người duy nhất đặc
biệt như vậy. Bởi thế nên chị T. mới buồn, mới chia tay anh đi lấy chồng. Để anh
mãi cắn rứt, thương tưởng suốt đời và khóc mùi mỗi khi nghe bài hát “Anh còn nợ
em”. Như lời Bác sĩ chuyên khoa tim mạch Thân Trọng Minh có lần “chẩn bệnh” cho
anh: “Quả tim có bốn ngăn. Ngăn thứ nhất ông dành cho cha mẹ. Ngăn thứ hai ông
dành cho vợ con. Ngăn thứ ba cho tình yêu mà T. đã chiếm hết chỗ. Ngăn thứ tư
là của bạn bè”...
Hành trình của
tạp chí Ý Thức đã được anh Nguyên Minh ghi lại trong bài viết “Một Thời Ý Thức”.
Tiền thân của nó là tờ Gió Mai có từ 1957 khi các anh Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Hoài
Linh, Thùy Linh (Ngy Hữu Trần Hữu Ngũ), Hồ Thủy Giũ, Nguyên Thạnh (Nguyễn Mậu
Hưng), Thiên Nhất Phương (Châu Văn Thuận), Nguyên Minh, Hồ Thanh Ngạn… còn đang
học Quốc Học. “Hàng tháng ra một số báo, bài vở tác giả tự viết tay, tập trung
lại đóng thành một tập duy nhất, rồi chuyền tay nhau mà đọc. Thỉnh thoảng ra một
vài tập thơ của từng tác giả như U Hoài thơ của Lữ Kiều, Thác Loạn
của Lữ Quỳnh, Những Người Cùng Đi tuyển tập thơ của nhiều tác giả. Tuyển
tập thơ văn Gió Mai, in ronéo.” [1] Xong bậc trung học, các anh tản
mát theo đuổi hướng lựa chọn cho tương lai sự nghiệp riêng. “Từ đó Gió Mai
không ra báo thường xuyên. Tại Quy Nhơn, Thùy Linh, Nguyên Minh, Hồ Thủy Giũ,
cùng bài vở của anh em trong nhóm từ xa gởi về làm một số Gió Mai tha hương...”
[1]
“Năm 1967, tại
Phan Rang, khi Ngy Hữu và Nguyên Minh về dạy học tại đó, tập họp bài vở anh em trong
nhóm ở xa làm một số Xuân Gió Mai, in ronéo, khổ 21 x 30. Đến năm 1969, Gió Mai
mở rộng và đổi tên là Ý Thức, hai tháng ra một số báo, in ronéo. Lúc này, nhóm
chủ trương có thêm Trần Hữu Lục, Lê Ký Thương, Võ Tấn Khanh, Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc)...
Báo ra được 6 số thì dọn vào Sài Gòn, ra chính thức Bán nguyệt san văn học nghệ
thuật, in typô rồi đến offset, phát hành rộng rãi. Tòa soạn đặt tại 666 Phan
Thanh Giản, Sài Gòn. Nhóm chủ trương có thêm Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư... Báo ra
24 số thì tạm đình bản. Đầu năm 1974, Ý Thức ra bộ mới dưới hình thức Bản thảo
do Lữ Kiều làm chủ biên, lúc bấy giờ nhóm chủ trương có thêm Hoàng Khởi Phong,
Lê Văn Ngăn. Đến năm 1975, Ý Thức Bản thảo số 2 chưa kịp phát hành.” [1]
Như thế, nếu không
kể tiền thân Gió Mai, và số báo chưa kịp phát hành, Ý Thức chỉ góp mặt vỏn vẹn 25
số...
Anh Nguyên Minh
tâm sự:
Thời trẻ
tôi làm Ý Thức.
Về già tôi
làm Quán Văn.
Bây giờ. Bốn
phương. Tám hướng. Bạn cũ. Bạn mới. Giới già. Giới trẻ. Đã thành danh. Chưa thành danh.
Cùng nhau
ngồi chung một chiếu. Văn chương. Nghệ thuật. Chữ nghĩa trong sáng. Nhân bản. Hồn
nhiên. [1]
Thật đúng như vậy.
Từ năm 2011 đến nay 2023 là 12 năm, tròn một giáp, anh đã ra được 100 số báo. Như
vậy tính trung bình hơn một tháng thì có một số Quán Văn chào đời, với tiêu chí
Sáng tác – Tư liệu – Nghiên cứu văn học, góp mặt người viết từ khắp mọi nơi trên
thế giới. Mặt khác, Quán Văn không chỉ giới thiệu những tác giả sinh sống trong
nước như Trương Thìn, Lữ Kiều, Đỗ Hồng Ngọc, Chu Trầm Nguyên Minh, Khuất Đẩu, Nguyễn
Lệ Uyên, Lê Ký Thương, Nguyễn Dương Quang, Đoàn Văn Khánh... mà còn với người đang
ở “biển ngoài”: Lữ Quỳnh, Phạm Cao Hoàng, Kiệt Tấn, Nguyễn Minh Nữu, Trương Vũ,
Nguyễn Thị Khánh Minh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Thụy Đan, Nguyễn Thành Châu...
Ngoài ra, Quán Văn còn tổ chức những chuyến đi
chơi xa từ Nam chí Bắc, thậm chí sang cả Pháp, Hoa Kỳ để các bạn văn có dịp cùng
gặp gỡ, sinh hoạt chung với nhau và có thêm kiến thức về các vùng miền trên đất
nước lẫn hải ngoại cho sáng tác... Quán Văn đã như một mái nhà ấm áp, thân tình
quy tụ các bạn yêu văn chương nghệ thuật cùng đến với nhau, không phân biệt chiếu
trên, chiếu dưới, cũ hay mới, lớn hay nhỏ, v.v... 100 số báo, với biết bao kỷ niệm.
Bên anh Nguyên Minh còn có những cộng sự rất đắc lực, năng nổ phụ giúp, như nhà
thơ Đoàn Văn Khánh, họa sĩ Nguyễn Sông Ba, nhà phê bình Hoàng Kim Oanh...
Bên cạnh làm báo
Quán Văn, anh Nguyên Minh vẫn tiếp tục theo đuổi việc sáng tác, trong khi đa phần
các anh từ thời Gió Mai, Ý Thức vì lý do này khác đã gác bút. Đây là một điểm son
của anh. Nên vừa qua tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ số 26 phát hành ngày 1-7-2023
tại Hoa Kỳ dành giới thiệu nhà văn Nguyên Minh như một vinh danh cho người suốt
đời chung thủy với văn chương. Tôi giúp sửa morasse số báo này nên đã hơn một lần
được đọc lại một số sáng tác của anh. Những truyện ngắn của anh, bằng lối viết dung
dị, trong sáng, rất lôi cuốn khiến độc giả khó bỏ sách xuống khi đọc chưa xong,
thoạt xem qua như những câu chuyện kể đời thường nhưng thật sự tự nó đã hàm chứa
những ý nghĩa rất sâu sắc, nhân bản mà anh khéo léo lồng trong đó. Tôi đã chảy nước
mắt thương ông Tàu già Quán Siu Siu, bao nhiêu năm gầy dựng cơ nghiệp từ
hai bàn tay trắng bằng sự siêng năng cần mẫn bỗng chốc tan tành như mây khói, vợ
con chết mất xác trên đại dương (do gia đình ông không chấp nhận hồi hương về Trung
Hoa đại lục mà vượt biên hướng về Đài Loan, chiếc tàu nhỏ đâm vào đá ngầm tan nát).
Không hiểu sao ông lại trở về được nơi này. Nhìn ngôi nhà sang trọng cũ nay đã thay
ngôi đổi chủ sau chiến dịch giải tỏa người Hoa nằm trong diện “tư sản mại bản”,
những kỷ niệm cũ tràn về. “Ông đã thành một người ngớ ngẩn. Hằng ngày ông lẩn
quẩn quanh khu chợ An Đông, và trở thành kẻ ăn mày trên chính mảnh đất đã làm
ông thành ‘tư sản mại bản’ ” [2]. Cuối cùng ông Siu Siu cũng “chết tức
tưởi trong một đêm mưa dầm. Xác của ông từ con kênh bến Chương Dương trôi giạt
vào bờ. Trên đầu có vết bầm rướm máu...” [2]
“Có một thời như
thế” là câu chuyện kể về thời kỳ đầu sau khi dứt chiến tranh, người thím đã lấy
những tảng đá xanh bia mộ của những tử sĩ VNCH úp ngược lót làm chuồng nuôi heo
trong thành phố với thực phẩm cho heo ăn là cám trộn với những xác thai nhi bị người
mẹ nạo bỏ bằm nhỏ. Làm rượu bổ ngâm bằng nhau người. Và làm thuốc tây giả bằng cách
trộn vào đó nửa bột mì... Nói chung vì cuộc sống, thím chẳng từ nan một việc gì
miễn kiếm được nhiều tiền. Nhưng “ác giả ác báo”, “những con heo lăn đùng giãy chết trước ngày xuất
chuồng, hôi thối như mùi xác người chết đã thối rữa. Bán không ai dám mua, cho
không ai dám nhận.” [3] Những
chủ nhân của chúng cũng gặp tai họa thảm khốc. Và người thím này về sau đã bị hành
xác đớn đau với bệnh ung thư tử cung, đã khóc trước khi trút hơi thở cuối cùng,
tiếng khóc như tiếng mèo gào.
Đặc biệt truyện
“Ám ảnh một lời nguyện” nói về một đứa bé trai con một sĩ quan Võ Bị đã mất trong
trại cải tạo năm 1976, được mẹ cho vượt biên hầu tìm một tương lai sáng sủa hơn.
Chẳng may khi lênh đênh trên biển cả, tàu bị mất phương hướng, hết cả nhiên liệu,
nước ngọt, thực phẩm, sức lực thuyền nhân cũng cạn kiệt chỉ còn chờ cái chết. Đúng
lúc đó thì hải tặc xuất hiện. Cậu bé nhớ lời Mẹ dặn nên nắm chặt tượng Phật Bà
Quan Âm trong tay và nguyện cầu. “Chỉ trong tích tắc. Không hiểu sao Huy hét
lên một tiếng kêu ghê rợn. Bọn hải tặc lao nhao nhảy qua tàu chuồn mất. Chính
khoảnh khắc đó người đàn bà từ đâu đến nhập vào hồn Huy. Chính bà ấy đưa tiếng
hét thất thanh của Huy bay xa làm cho một chiếc tàu lớn đang di chuyển ngoài
khơi tìm đến cứu nạn.” [4] Người
đàn bà đó được suy đoán là Mẹ Âu Cơ đã ôm chặt và vỗ về Huy. “Trước khi bà biến
mất, bên tai Huy vẫn văng vẳng tiếng nói trách móc đến một ai đó: Sao ông để
con cháu mình bị đày đọa thảm khốc như thế này? Giận chồng nhưng ta phải cứu
con cháu mình.” [4] Đã 40 năm
trôi qua, đứa bé trai bây giờ là người đàn ông 50 tuổi, một bác sĩ về tim mạch
nổi tiếng trong một đất nước giàu mạnh nhất thế giới, bỗng dưng bán hết gia tài,
nhà cửa để trở về quê cha đất tổ dù người Mẹ không muốn. Thì ra, ngày xưa chàng
đã có lời nguyện với bà Âu Cơ (hay cũng là Mẹ Việt Nam?). Tác giả kết luận:
“Chính sự trở về quê cha đất tổ của Huy đã làm tôi thay đổi
lối nhìn về một truyền thuyết mà từ thuở ấu thơ đến tuổi xế chiều vẫn làm tôi
ray rứt. Cái chia tay mỗi người mỗi ngả, dắt thêm đàn con 50 người. Lạc Long
Quân xuống biển. Âu Cơ lên rừng. Vợ chồng chia lìa. Anh em 100 người chia đôi,
quên bẵng mình cùng một bọc trăm trứng sinh ra.
... Bấy giờ tôi giật mình mới khám phá ra hình như người
viết sử ngày xưa đã bỏ mất đoạn kết về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ. Chỉ
sau một thời gian cả hai người đều dắt đàn con về trên thảo nguyên. Trăm đứa
con ôm nhau sau bao năm xa cách. Chiến tranh không bao giờ trở lại.” [4]
Truyện này làm
tôi liên tưởng đến bài thơ Tâm Sự Lạc Long Quân của Đỗ Nghê sáng tác từ năm
1965:
Những vết ô nhục trong lịch sử chúng
ta
Các con đều đã rõ
(…) Đã cùng sinh ra trong một bọc
Thì hãy nghe ta
Đốt hết sách vở, xé hết cờ xí đi
Rồi đứng ôm nhau mà khóc
Nước mắt sẽ làm tươi lại cỏ cây
Nước mắt sẽ làm phì nhiêu mảnh đất...
Tiếng nói của yêu
thương, nhân bản trong văn Nguyên Minh xuyên suốt với mộng văn chương mà anh đeo
đuổi. Xin được chúc mừng anh. Cùng Quán Văn kỷ niệm 100 số báo ra mắt, kính chúc
anh Nguyên Minh và các bạn văn luôn vui, khỏe, chân cứng đá mềm để tiếp tục vượt
qua được chặng đường khó khăn trước mặt./.
Trần Thị Nguyệt Mai
14-7-2023