Bữa 29/9 vừa
qua, một thầy giáo dạy Anh văn tại trường Phan Huy Chú, Thạch Thất, đã bóp cằm,
chỉ tay vào một học sinh trong lớp 10A9 và mắng: “Mày có hiểu không, con chó
này?”. Sự việc đã được học sinh trong lớp quay video. Năm ngày sau thầy đã xin lỗi học sinh và học sinh cũng đã
xin lỗi thầy vì có lời nói và cử chỉ thiếu tôn trọng. Sau đó, ông thầy đã xin
thôi việc.
Ít ngày sau, tại
trường Nguyễn Chí Thanh, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, cũng có một vụ cãi
nhau giữa thầy và trò. Ngày 16/10, ông Hiệu Trưởng Hà văn Thọ cho biết: “Nữ học
sinh có trêu chọc thầy, sau đó có lời qua tiếng lại. Học trò thì cá tính còn thầy
mất bình tĩnh, từ đó mọi chuyện đổ bể. Một phần nữa là hoàn cảnh gia đình của cả
thầy và trò đều đặc biệt nên trong lòng chất chứa nỗi bức xúc”. Trên đoạn video dài 5 phút có ghi lại cảnh nữ sinh
ngồi ở bàn đầu đã cãi nhau tay đôi với thầy giáo. Cô này đã liên tiếp văng tục,
xưng “mày-tao” và thách thức thầy giáo trước hàng chục học sinh trong lớp.
Đây là hai hoạt
cảnh mà tôi, một người đã từng dậy học, không nghĩ là có thể xảy ra trong môi
trường giáo dục. “Mày-tao” là hai nhân xưng đại danh từ chỉ sự khinh miệt, bất
lịch sự, thô tục mà những người có ăn có học không dùng tới. Nhưng “mày-tao”
cũng là những đại danh từ chỉ sự thân mật khi được dùng trong gia đình, hoặc giữa
những người thân thiết.
Tôi có một bạn
học từ hồi tiểu học, thời mà lũ học sinh nhỏ nhít chúng tôi không xưng hô với
nhau bằng “mày-tao” thì gọi nhau bằng chi. Thường thì những bạn học thời nhỏ
nhít đó đã phân tán, khi khôn lớn không còn gặp nhau nữa, mỗi người một phương.
Khổ cho tôi là anh bạn thời tiểu học cho tới nay vẫn nhìn thấy mặt nhau hoài.
Chúng tôi cùng ở chung một thành phố, cùng ăn uống nhậu nhẹt với nhau. Bạn mới
thì nhiều, bạn thời còn mũi giãi lòng thòng đó chỉ có hai thằng. Đầu chúng tôi
nay vẫn một thứ tóc nhưng tóc đã đổi màu trắng xóa. Gặp nhau hai chúng tôi vẫn
cứ tỉnh rụi “mày-tao” như xưa. Hai ông già đầu bạc mày tao với nhau là một chướng
tai với những người chung quanh. Bạn bè và vợ con nhắc nhở hoài về sự kệch cỡm
này nhưng chúng tôi quen thói vẫn không bỏ được. Ngộ một điều là khi mày tao với
nhau chúng tôi cười nói phớ lớ hết sức, có khi còn có lợi cho sức khỏe.
Dân còn mày-tao
thiệt hết sức thú vị khi đọc được một nghiên cứu mang tên “Tao Mày” của Giáo sư
Phan Cẩm Thượng in trong cuốn “Nghệ Thuật Ngày Thường”, Tập 2. Theo Giáo sư Thượng,
từ thời xa xưa người Việt chỉ xưng hô với nhau bằng hai đại từ nhân xưng
“mày-tao”. Đây là lối xưng hô của người Việt cổ, ngày nay còn sót lại trong
ngôn ngữ của các dân tộc Thượng. Ông viết: “Nghe
những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao mày duy nhất vẫn được
dùng phổ biến, điều này cũng thấy cách đây ba bốn mươi năm ở các tỉnh từ Thanh
Hóa đổ vào trong”. Tiếng nói họ dùng phát âm là “mi” và “tau”. Cha mẹ nói với
con cái, anh chị em nói với nhau, đàn ông đàn bà cùng trang lứa…tất cả phổ biến
là “mi” và “tau”. Giáo sư Phan Cẩm Thượng cho “mi và tau” hay “mày và tao” là ngữ
âm cổ của người Việt. Ông nhận định: “Tôi
nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó người Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ
nhân xưng đơn giản “tao và mày”, rồi vì một lý do nào đó, thời nào đó, cách thức
xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình hóa cho tới hiện nay”.
Chuyện xưng hô
“mày-tao” cũng đã được ghi trong văn bản tại một hội nghị giải quyết những bất
đồng liên quan đến thuật ngữ Kitô giáo bằng tiếng Việt do Giám Sát Dòng Tên
vùng Trung Nhật triệu tập tại Macao năm
1645. Giáo sư Phan Cẩm Thượng viết: “Hội nghị đưa
ra mô thức rửa tội bằng tiếng Việt có viết: “Tau rữa mâi nhân danh Cha ùa Con,
ùa spirito santo” (tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirit santo). Văn bản
này có trong cuốn Dinh trấn Thanh
Chiêm Quảng Nam (Đinh trọng Tuyến và Đinh Bá Truyền biên soạn). Ở
đây, việc xưng hô giữa cha xứ và con chiên được nói bằng hai ngôi “Tau” (tao)
và “Mâi” (mi, mày). “Ngày nay, nếu một đức cha mà xưng mày - tao với con chiên trong nhà thờ thì quả là không
ổn, nhưng điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai ngôi đơn giản là rất phổ
biến ở Đàng Trong, nhất là xứ Quảng Nam, nơi cha Francisco de Pina được coi là
người đầu tiên dùng chữ Latin phiên âm tiếng Việt”.
Từ khi nào mày-tao không còn là lối xưng hô duy
nhất của người Việt, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng viết: “Người ta cho rằng, sau những cuộc chiến tranh ác liệt thời Trần và thời
Lê với quân Nguyên Mông và quân Minh, người Việt phải đi sơ tán trong toàn
quốc, người sơ tán và người địa phương phải coi nhau như người nhà, nên gọi
nhau là anh em, chú bác, đồng bào”. Ảnh hưởng của Nho giáo, lấy lễ nghĩa
cương thường là rường mối xã hội, có thể cũng là một nguyên nhân khiến cách
xưng hô của người Việt thay đổi. Từ mày-tao giản dị tới cách dùng những đại
danh từ nhân xưng trong quan hệ gia đình. Từ đó “ông-bà, cha-mẹ, anh chị, cô dì
chú bác” và nhiều đại danh từ nhân xưng khác được dùng một cách thường xuyên
trong xã hội.
Theo nhận xét của nhà văn Võ Kỳ Điền thì người
Việt, nhất là người miền Nam, có lối xưng hô theo tình nghĩa gia đình vì chúng
ta sống theo kiểu chòm xóm. Ra đường, chúng ta như vẫn chưa ra khỏi nhà, chào
hỏi xưng hô anh Ba, chị Hai, chú Tư, cô Năm, bác Bảy với tất cả mọi người.
Việc “gia đình hóa” cách xưng hô khiến nhiều người
trong chúng ta tự hào là tiếng Việt phong phú, không giống các nước khác chỉ
trơ trọi mày-tao như Pháp je / tu,
Anh I / you. Phong phú thật nhưng đây
là một đánh đố khá khó chịu cho người ngoại quốc học tiếng Việt cũng như cho
con em chúng ta ở hải ngoại.
Chuyện tưởng đã xong, mày-tao đã mất chỗ
đứng nhưng tại sao mãi tới năm 1924 học giả Phan Khôi vẫn còn phải bận lòng với
mày-tao? Trên Thực Nghiệp Dân Báo số 972, ngày 14/1/1924 ông viết bài : “Cách
Xưng Hô Mày-Tao”. Ông cho cách xưng hô mày-tao là tiếng của kẻ trên xưng với kẻ
dưới hay là người lớn xưng với trẻ con. Còn đối với những trường hợp khác,
chúng ta có một cách xưng hô lễ phép tùy tuổi tác, thứ bậc, địa vị. Nhưng xã hội
thời ông không chuộng tôn ti trật tự như vậy. Ông than phiền: “Thế mà trong
khoảng gần đây có một bọn người dấy lên toan đang tay mà dứt cái dây ấy, phá đổ
cái nền ấy. Họ tính bỏ hết cách xưng hô nhã nhặn, mặn mòi, đượm đà của ta mà
lập riêng một cách khác. Họ xưng với nhau bằng mày - tao… Nay thì bọn người đó
đã mày tao với nhau như cơm bữa rồi, dầu ai nấy làm trái tai mặc lòng chứ tự
học thì cho thế là văn minh, lịch sự. Nào những thế thôi, cả những tiếng An Nam
như tiếng “cha tôi, mẹ tôi, anh tôi” họ cũng khinh bỉ không thèm nói đến, dường
như nói đến thì hổ thẹn, mà phải nói đổi sang tiếng Pháp là “mon père, ma mère,
mon frère” thì họ mới bằng lòng”. Lối xưng hô mày-tao thời kỳ này là ảnh hưởng lối xưng hô của Pháp “je – tu /vous” và Anh “I –
You”.
Tấm
lòng của học giả Phan Khôi coi bộ không đi tới đâu. Người ta vẫn cứ mày-tao cho
giống Tây. Bảy năm sau ông Đinh Huy Hạo lại phải lên tiếng. Trên báo Trung Lập
số 6393 ra ngày 17/3/1931, ông viết: “Hai
tiếng xưng hô “mày - tao” là hai tiếng xấu xa tục tằn nhất trong tiếng ta, mà
chán ngán thay nó còn sống ở trong tiếng ta mãi mãi, cái số người dùng những
tiếng ấy càng ngày càng thấy nhiều thêm”. Theo ông, hai tiếng “mày - tao” phân
biệt được hẳn giai cấp, bởi vì “chủ nhà gọi đứa ở là “mày” xưng là “tao”, đốc
công nói với phu phen, thầy kí nói với thợ thuyền, vô số người dùng hai tiếng
“mày - tao”. Xưng mình là “tao” gọi người là “mày” tức là khinh bỉ người ta,
đặt người ta xuống một cái hàng đứng dưới chân mình vậy... Nếu ta không biết
ngăn ngừa đi sớm, chỉ e cái tục tằn nó bành trướng lên to. Vì người ta thường
lúc đầu chỉ nói đùa mấy tiếng tục có ý ngượng nghịu, nhưng lần lần nay một câu,
mai một câu, sau nói tục không còn vấp váp chút nào, có khi quên hẳn tiếng nói
ấy là tục. Hai tiếng “mày - tao” là tiếng tục tằn, xấu xa nhất trong tiếng Việt
Nam ta, người đã cắp quyển sách đi học không bao giờ nên dùng đến, bất cứ đối
với hạng người nào”.
Mày-tao có lẽ là cách xưng hô duy nhất mà người
Pháp tại Việt Nam học được. Họ nghênh ngang miệt thị dân bản xứ. Điều này để lộ
bộ mặt thực dân mà ngay cả nhà cầm quyền thuộc địa Pháp cũng không muốn cho mọi
người thấy. Họ cũng phải ra lệnh chấm dứt lối xưng hô này. Báo Đông Phương số
581, ra ngày 14/11/1931 có đăng bài báo mang tên: “Một tờ thông tư của quan
Toàn Quyền về việc bỏ lệ xưng hô mày-tao”. Nguyên văn như sau: “Hôm
10 Novembre (tháng 11) vừa rồi, quan Toàn quyền Pasquier vừa gửi một tờ thông
tư cho các ông chủ các sở đại để nói: “Có người cho bản chức biết rằng: Những
viên chức người Pháp hoặc lớn, hoặc nhỏ, thường trong khi giao thiệp với các
viên chức bản xứ lại hay dùng câu “mày - tao”. Vậy bản chức yêu cầu ngài nên
dặn những viên chức Pháp dưới quyền ngài bảo từ nay phải bỏ cái lối cư xử ấy
đi”.
Lối
xưng hô mày-tao bị truy quét rối rít, cả từ làng báo Việt tới chính quyền thực
dân. Nhưng mày-tao vẫn chưa biến mất hẳn trong cách xưng hô của người Việt.
Loại mày-tao như thầy xưng với trò hoặc ngược lại, trò với thầy như mới xảy ra
tại nhà trường trong nước là loại đáng bỏ vào sọt rác. Nhưng loại mày-tao bày
tỏ tấm lòng thân thương giữa những người bạn tấm mẳn có cần phải bỏ không? Nếu
hỏi tôi, tôi sẽ lắc đầu. Ngày nay, tuổi đã…hạc, tôi và anh bạn tiểu học ngày
xưa vẫn không bỏ được lối xưng hô mày-tao. Khi xưng hô với nhau như vậy, chúng
tôi như sống lại tình bạn chân thật ngày còn nhỏ nhít. Chẳng ai cảm thấy bị
khinh miệt hay nhục mạ. Chỉ có tình bạn thời lòng còn trong trắng, chẳng có
chút tính toán nào, mới làm cho mày-tao trở nên hết sức hồn nhiên.
Với
thời gian, con người lớn lên, mất dần cái ngu ngơ thời trẻ dại, mày-tao không
còn là đại danh từ nhân xưng thích hợp. Nói thế cũng không đúng hẳn. Chúng ta
còn tình bạn trong quân ngũ. Cùng sống với nhau như trong một gia đình, ăn uống
chung đụng hàng ngày, cưu mang nhau lúc hiểm nguy, những người lính chia đều
nhau những oan trái bất ngờ trước hòn tên mũi đạn, còn có tình bạn nào khắng
khít cho bằng. Vậy nên họ cũng mày-tao với nhau thân thương như thời trẻ dại.
Ngửi mày một tí xem làm sao
Thân thể mày bay mùi binh đao
Ngày trước mày hiền như đất cục
Giờ mở miệng ra là chửi tục
Hà hà ra thế con nhà binh
Ngôn ngữ thơm tho như mùi cứt
(Nguyễn Bắc Sơn)
Thời
chiến mày-tao là ngôn ngữ của dân nhà binh, chẳng họ hàng hang hốc chi mà sống
với nhau như anh em một nhà, cùng chia nhau bom đạn, che chở nhau như tình
nhân. Rồi khi chinh chiến tàn lụi, mang thân kẻ thua trận, cùng nhau hứng sự
thù hận trong các trại tù, đám chiến bại lại chia nhau tủi nhục, lại nảy sinh
ra tình mày-tao. Mày-tao trong sinh hoạt hàng ngày vun những người tù cam chịu
tủi nhục thành một gia đình.
Bạn
lính, người ngoài vòng cương tỏa, người chôn chân trong chốn ngục tù, chuyện
vui chuyện buồn vẫn mày-tao nhắn nhủ:
Không nói tao sợ mày
phiền
Nói ra, với rượu, tao buồn gấp hai
Em mày đi lấy chồng rồi
Gặp tao ngoài phố ngậm ngùi nhìn nhau
Tao nhìn tao thấy mày đau
Nó nhìn nó thấy trong tao có mày.
(Nguyên
Sa)
Mày-tao là sản
phẩm dịu dàng của thời học trò, thời lính hoặc thời tù đày. Nguyễn Xuân Hoàng với
tôi không học chung một năm nào, từ tiểu học tới Đại học; không bạn lính tráng
chi vì cả Hoàng lẫn tôi đều không có mặt trong quân đội; không cùng tù đày sau
cuộc chiến, vậy mà chúng tôi vẫn mày-tao với nhau. Kể cũng lạ. Chúng tôi chỉ gặp
và chơi với nhau khi cùng cộng tác với báo Văn Học của Dương Kiền và Phan Kim
Thịnh tại Sài Gòn. Báo quán ngày đó đặt tại đường Lê văn Duyệt. Nơi đây, những chiều
thứ bảy, chúng tôi tụ họp nhau lại tán dóc. Những buổi gặp nhau như vậy không
chỉ có Hoàng và tôi mà còn nhiều anh em viết lách khác, vậy mà với những anh em
khác, chúng tôi chẳng bao giờ mày-tao. Chỉ có tôi và Hoàng. Sau 1975, chúng tôi
không gặp nhau một thời gian dài, cho tới khi tôi qua Cali, tới gặp Hoàng khi
đó đang làm cho tờ Người Việt. Thời gian đổi đời làm đảo lộn mọi thứ nhưng chuyện
mày-tao của tôi và Hoàng không hề thay đổi. Nhìn thấy nhau nơi xứ lạ quê người
sau bao nhiêu bầm dập, chúng tôi vẫn mày-tao tiếp. Có lần tôi hỏi Hoàng tại sao
chúng tôi lại mày-tao như vậy, Hoàng cũng lắc đầu không biết. Cho tới khi Hoàng
bỏ đi xa thiệt xa!