Trịnh Y Thư
SỰ LÃNG QUÊN
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu
khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước
công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường
thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ
và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước
micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí
Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
Bức ảnh chụp ông Hồ đọc bản tuyên ngôn có Nguyễn
Hữu Đang đứng ngay sau lưng. Có lẽ đó là bức ảnh được truyền bá sâu rộng nhất
trong nước vào thời điểm đó, trên báo chí cho quần chúng đọc, trên sách vở cho
học sinh, sinh viên học hành, trên tài liệu cho cán bộ, quân nhân học tập, v.v…
Nhưng, hơn mười năm sau đó, sau khi ông Nguyễn Hữu Đang và nhóm Nhân Văn-Giai
Phẩm bị đảng trù giập không thương tiếc, bản thân ông bị tống cổ vào tù, thì
hình ảnh ông đứng sau lưng Hồ Chí Minh bị tẩy xóa (rất tinh vi). Từ lúc đó trở
về sau, bức ảnh Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập không có Nguyễn Hữu Đang.
Cũng vào quãng thời gian này, một chuyện tương tự xảy ra bên trời Tây, sau
Đệ nhị Thế chiến, chính xác là tại Tiệp Khắc, một quốc gia phiên thuộc của đế
quốc Xô Viết. Chuyện này được nhà văn Milan Kundera [1929-2023] thuật lại trong
cuốn tiểu thuyết Tập sách cái cười và sự
lãng quên của ông, một tác phẩm quan trọng đã đưa tên tuổi ông lên hàng nhà
văn tầm vóc quốc tế vào cuối thế kỷ XX. Ông viết như nhau:
“Tháng Hai năm 1948, lãnh tụ Cộng sản Klement Gottwald bước ra bao lơn
tòa dinh thự xây từ thời Baroque thủ đô Praha để hiệu triệu hàng trăm nghìn
công dân đứng chật ních dưới quảng trường Phố Cổ. Đó là khúc quành trọng đại của
lịch sử Bohemia – một thời khắc định mệnh.
Đứng cạnh Gottwald là các đồng chí của ông, Clementis gần nhất, ngay bên
cạnh. Tuyết rơi tầm tã, trời se sắt lạnh, và Gottwald để đầu trần. Thấy vậy
Clementis ân cần lấy mũ của mình đội lên đầu Gottwald.
Cơ quan tuyên truyền của đảng in ra hàng trăm nghìn bức ảnh Gottwald đứng
trên bao lơn, mũ lông thú trên đầu, các đồng chí đứng bên cạnh, nói chuyện với
quốc dân. Lịch sử xứ Bohemia Cộng sản khởi đi từ cái bao lơn đó. Qua bích
chương, sách vở, bảo tàng viện, đứa trẻ nào cũng biết rõ bức ảnh.
Bốn năm sau họ khép Clementis vào tội phản quốc và đem ông ra treo cổ.
Ngay tức khắc cơ quan tuyên truyền của đảng bôi xóa ông khỏi lịch sử và, dĩ
nhiên, ra khỏi tất cả những hình ảnh họ công bố trước đây. Từ lúc đó trở đi,
Gottwald đứng một mình trên bao lơn.
Nơi Clementis đứng giờ đây chỉ còn lại bức tường trơ trọi của tòa dinh
thự. Clementis hoàn toàn tan biến, chẳng còn lại gì, ngoại trừ cái mũ lông thú
trên đầu Gottwald.”
Đảng Cộng sản Việt Nam xóa ảnh Nguyễn Hữu Đang đứng sau lưng Hồ Chí Minh, họ còn xóa những hình ảnh kinh hoàng của biến cố Tết Mậu Thân 1968 thảm khốc ra khỏi lịch sử. Trong chiến tranh, quân lính hai bên chém giết nhau là chuyện có thể chấp nhận, con người từ lâu vốn tự đặt ra quy luật bất thành văn như thế, nhưng giết người già, em bé vô tội – không phải một vài người mà hàng ngàn người – không chút vũ khí tự vệ trong tay là tội ác chiến tranh, là sát nhân. Biết như thế, người Cộng sản Việt Nam bằng mọi giá, mọi cách, phải xóa bức ảnh thảm đát, ghê rợn đó ra khỏi lịch sử.
***
Nguyễn Hữu Đang của Việt Nam và
Clementis của Tiệp Khắc, nạn nhân Mậu Thân 1968, bây giờ chỉ còn là những bóng
ma, bóng ma quá khứ. Chỉ bóng ma mới có thể hiện ra và tan biến không để lại
hình tích gì trên một bức ảnh, và bởi vì là bóng ma nên nó chỉ làm được một việc
duy nhất là hù dọa trẻ nít và những kẻ yếu bóng vía. Nó chẳng làm được gì cho lịch
sử. Lịch sử gạt nó ra ngoài lề, nếu ta hiểu lịch sử đồng nghĩa với quyền lực.
Những bóng ma ấy, và vô vàn những bóng ma khác, sẽ dần dà trôi vào miền
quên lãng. Sự hiện hữu của chúng là một nghi vấn, và trí óc con người luôn luôn
sẵn sàng biến nghi vấn thành sự lãng quên.
Sự lãng quên có ý nghĩa về mặt nhận thức, vì
nó liên quan đến những gì chúng ta có thể biết và cách thế chúng ta biện minh
cho niềm tin của mình. Nó cũng có thể liên quan đến chủ nghĩa hoài nghi trong
triết học, đặc biệt trong ngữ cảnh của chủ nghĩa hoài nghi thế giới ngoại tại.
Nếu chúng ta quên đi những trải nghiệm hoặc tri thức nhận thức trước đây, điều
đó có thể đặt ra câu hỏi về độ tin cậy của các giác quan và khả năng nhận thức
thế giới bên ngoài. Triết gia Friedrich Nietzsche có một quan điểm thú vị về sự
lãng quên. Ông lập luận rằng quên không chỉ là sự suy giảm trí nhớ mà là một
khía cạnh cần thiết của ý chí quyền lực và sự tự khẳng định. Ông tin rằng các
cá nhân cần quên đi những trải nghiệm và giá trị trong quá khứ để tạo ra những
cái mới và khẳng định bản sắc riêng của mình. Khái niệm về sự lãng quên cũng có
thể liên quan đến bản sắc cá nhân trong bối cảnh triết lý của tâm trí. Câu hỏi
liệu cùng một người có thể tồn tại xuyên thời gian dù đã quên nhiều trải nghiệm
trong quá khứ hay không, vẫn là chủ đề tranh luận. Các triết gia theo Chủ nghĩa
Hiện sinh như Jean-Paul Sartre thì đưa ra khám phá về ý tưởng quên trong bối cảnh
tự do và trách nhiệm. Trong bối cảnh này, sự lãng quên có thể được xem là cách thế
để vượt thoát khỏi gánh nặng của quá khứ và tạo ra sự tồn tại (hiện hữu, hiện tồn,
hiện sinh, hữu thể) của chính mình.
Xem ra sự lãng quên là một thuộc tính tất yếu của con người mà không phải
ai cũng có thể khắc phục hoặc chế ngự. Con người vốn chóng quên. Trong một thế
giới bão hòa với thông tin và dữ kiện như cuộc sống ngày nay, sự chóng quên lại
là một yếu tố cần thiết để thích ứng với các điều kiện nội tại cũng như ngoại tại,
như triết gia John Locke từng lập luận rằng khả năng quên là điều cần thiết để
duy trì bản sắc cá nhân của một con người theo thời gian, bởi nếu không quên,
tâm trí chúng ta sẽ tràn ngập những thông tin không liên quan và lỗi thời.
Những vụ thảm sát do chiến tranh gây nên đánh động tâm tư chúng ta,
nhưng thử hỏi ngày nay ai còn nhớ đến Mậu Thân 1968, ai còn nhớ đến Kosovo, đến
Iraq. Tôi dám cược bất cứ cái gì là chỉ trong vòng vài năm nữa, khi ngọn lửa
chiến tranh tàn lụi, sẽ chẳng còn ai nhớ đến Ukraine, đến Palestine nữa. Hình ảnh
thảm khốc những đứa bé chết cháy thành than sẽ lùi vào quên lãng.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng hậu đình hoa.
Thi hào Đỗ Mục từ thời Vãn Đường, thế kỷ IX, đã ngậm ngùi than thở như
thế. Vâng, chẳng phải bây giờ người ta mới chóng quên.
Đối với các thế lực cực quyền, đây chính là điểm yếu của con người mà họ
khai thác tới hạn để che đậy những tội ác do chính họ gây ra. Họ sử dụng nó như
một công cụ bài bản để sửa đổi lịch sử sao cho phù hợp với quan điểm giáo điều
và chính thống của họ. Tất cả những gì không đi theo đường lối, chủ trương của
họ hoặc bất lợi cho họ về mặt tuyên truyền, họ không ngần ngại cho vào bóng tối,
phủ nhận, lấp liếm, đổ thừa, cho dù những hành vi đó phi lý, vô lý đến đâu
chăng nữa. Bạn đừng phí công phí sức chất vấn hay tranh luận về sự không hợp
tình hợp lý, không tôn trọng sự thật của họ. Chỉ vô ích thôi bởi bạn đang nói
chuyện với một cục đất ù lì. Trong bóng tối, sự vật trở nên mù mờ, xập xoạng
như những bóng ma – những bóng ma Nguyễn Hữu Đang, Clementis và hàng trăm hàng
ngàn bóng ma khác – không một chút trọng lượng, chẳng mảy may tác động lên bất
cứ sự việc nào, và chỉ thoi thóp lóe lên trong giây phút phù du của lòng hoài
niệm.
Có lẽ bởi thế Kundera đã phải chua xót nói rằng: “Cuộc đấu tranh của con
người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên.”
Sự lãng quên sẽ ở với con người mãi mãi. Vĩnh viễn chúng ta bị đóng đinh vào sự lãng quên. Nó giúp cái Ác lên ngôi, và sự cứu chuộc vẫn nằm im không nhúc nhích bên trong lớp vỏ hy vọng mong manh của những kẻ khao khát Sự thật nhưng chẳng bao giờ tìm thấy.
– Trịnh Y Thư