Washington Irving là nhà văn viết nhiều thể loại: truyện
ngắn, tiểu luận, lịch sử, tiểu sử, ông cũng là nhà ngoại giao. Ông yêu thích
văn chương từ nhỏ, đọc rất nhiều sách. Hết bậc trung học, ông theo học luật , vừa
làm việc tại văn phòng luật sư Joseph Ogden Hoffman. Vào năm 1802, ông viết một
loạt bài có tính châm biếm dưới hình thức các bức thư, đăng trên báo The
Morning Chronicle của thành phố New York, được độc giả tán thưởng. Ông tiếp tục
viết các bài khảo luận châm biếm cho tạp chí Salmagundi.
Ông trở thành luật
sư thực sự nhưng do yêu văn chương nên ông bỏ nghề luật. Ông xuất bản cuốn “ Lịch
sử của thành phố New York từ thuở ban đầu của thế giới đến đoạn cuối của Thời đại
Hoà Lan “ năm 1809.
Năm 1815, Washington
qua thành phố Liverpool của nước Anh để trông coi một chi nhánh kinh doanh của
gia đình. Khi đến London, ông gặp nhà văn Sir Walter Scott, và được nhà văn này
khuyến khích sáng tác. Kết quả là cuốn “ The Sketch Book of Geoffrey Crayon,
Gent “. Cuốn này gồm một loạt bài khảo luận, truyện ngắn và đoản văn viết về
Hoa Kỳ và nước Anh, khiến các nhà phê bình ở Châu Âu bắt đầu chú ý đến ông.
Trong cuốn này có hai sáng tác quan trọng
nhất của tác giả là Rip Van Winkle ( được giới thiệu dưới đây ) và The
Legend of Sleepy Hollow.
Qua năm 1826, Washington
nhận lời mời của ông Alexander H. Everett, làm việc cho Toà Lãnh Sự Hoa Kỳ tại
Tây Ban Nha. Từ đấy, ông bắt đầu nghiên cứu và viết về các đề tài Tây Ban Nha.
Ông trở lại
thành phố New York vào năm 1832, cuối năm đó ông đi thăm các miền biên giới
phía tây. Ông đã mô tả các chuyến đi này trong tác phẩm “ A Tour on the
Prairies “ 1835 . Ông được bổ nhiệm làm Đại sứ của Hoa Kỳ tại Tây Ban Nha, phục
vụ trong nhiệm kỳ 4 năm rồi trở về Sunnyside. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ
tiểu sử “ Cuộc đời của George Washington “, hoàn thành không lâu trước ngày ông
qua đời.
Hai truyện “ Rip
Van Winkle “ và “ The Legend ò Sleepy Hollow “
nhắc đến bên trên được coi là các truyện ngắn đầu tiên của Hoa Kỳ.
Ai đã từng đi du lịch ngược dòng sông Hudson hẳn sẽ nhớ dãy núi Kaatskill. Nó là một nhánh đứt rời của gia đình dãy Appalachian vĩ đại, nằm về phía tây con sông, nhô lên rất cao, ngự trị cả một vùng đồng quê xung quanh. Cứ mỗi lần sang mùa, cứ mỗi lần thay đổi thời tiết, và cả mỗi giờ trong ngày cũng đem đến sự thay đổi về màu sắc và hình dáng của dãy núi. Dân địa phương có thể dựa vào đó để dự đoán thời tiết mà không sợ sai. Khi thời tiết tốt và ổn định, chúng có màu xanh thăm thẳm và các đỉnh nổi bật trên nền trời chiều. Nhưng khi trời quang đãng, chúng trùm lên đỉnh thứ hơi nước màu xám nhạt, trông giống một chiếc vương miện lung linh trong ánh nắng yếu ớt của buổi hoàng hôn.
Ngay dưới chân dãy núi thần tiên này, du khách có thể nhận thấy những làn khói mỏng bốc lên từ một ngôi làng mà những căn nhà mái ngói ánh lên giữa những tàn cây, ở ngay chỗ sắc xanh của vùng đồi hoà trộn vào màu xanh lục nhạt của vùng đất gần hơn. Nơi xuất phát là một ngôi làng nhỏ đã có từ lâu đời. do một số di dân người Hoà Lan lập nên, vào những ngày sơ khai của tỉnh hạt này, khoảng lúc bắt đầu ra đời nền cai trị của quan toàn quyền Peter Stuyvesant ( cầu mong Ngài an nghỉ ) và đến nay vẫn còn một số nhà của những người định cư đầu tiên dựng lên một vài năm sau ngày thành lập làng, bằng gạch nhỏ màu vàng đem từ Hoà Lan sang, có song cửa sổ bắt chéo hình quả trám và những đầu hồi quay ra trước, trên mái là cái chong chóng xem hướng gió hình con gà trống .
Trong làng này, và trong một trong những ngôi nhà ( mà đúng ra là đã tàn tạ theo thời gian ) đã sinh sống suốt nhiều năm , khi vùng này chưa là tỉnh hạt của Anh, một người giản dị, chất phác, hiền lành, tên là Rip Van Winkle. Anh là hậu duệ của dòng họ Van Winkle, có những người dũng cảm theo phò tá Peter Stuyvesant vào những ngày oanh liệt, và đã theo chân ông ấy bao vây Pháo đài Christina. Tuy nhiên anh thừa kế rất ít tính cách anh dũng đó. Tôi vừa nói rằng Rip là một người giản dị, hiền lành. Hơn thế nữa, anh còn là người hàng xóm tốt bụng, một người rất nhún nhường và một người chồng sợ vợ. Thật vậy, nhiều trường hợp có thể mọi người nhắc đến anh vì sự dễ bảo, việc gì trong nhà cũng do vợ quyết định và anh luôn đồng ý. Những tính cách này càng trở nên mềm yếu, dễ uốn nắn dưới sự điều khiển của một người phụ nữ đanh đá, và một bài diễn thuyết nhẹ nhàng có giá trị như một bài thuyết pháp để rao giảng về đức tính nhẫn nại và chịu đựng. Một người vợ lắm điều, ở một khía cạnh nào đó, có thể được coi như ân phước chấp nhận được , và nếu vậy thì Rip được hưởng phúc lành đến ba lần.
Đúng là một đặc ân trong số những bà vợ hiền trong làng, những người do bản tính hiền dịu của phái nữ, giữ vai trò lớn trong những cuộc cãi vã trong gia đình và không bao giờ thất bại, cứ mỗi lần dân làng nhắc đến những chuyện ngồi lê đôi mách là nhắc đến bà Van Winkle. Trẻ con trong làng đều reo mừng khi thấy anh đến gần. Anh chỉ dạy cho chung cách bắn bi hay thả diều. Anh kể cho chúng nghe nhiều chuyện ma, phù thuỷ và người da đỏ. Các trẻ em thường leo lên đùi anh hay nhảy lên lưng anh. Chúng trêu chọc anh cả trăm cách. Ngay cả các con chó trong làng cũng không sủa cắn anh.
Tuy nhiên Rip có cái sai lớn, đó là không chịu làm việc nơi nông trại của mình. Không phải là anh thiếu chuyên tâm hay thiếu nhẫn nại. Anh đã từng ngồi trên một tảng đá ẩm ướt , với một cái cần câu dài và nặng như một ngọn giáo Tartar, thả câu suốt ngày không than vãn, dù không được khích lệ bởi con cá nào đớp mồi. Anh có thể vác một gánh nặng trên vai nhiều giờ đi băng qua rừng rậm hay đầm lầy, lên đồi xuống dốc, hoặc săn vài con sóc hay chim bồ câu hoang dã. Anh không hề từ chối giúp đỡ một người láng giềng ngay cả việc nặng nhọc nhất, giúp đủ thứ việc, thậm chí là những việc vặt cho các bà nội trợ. Ấy vậy mà việc trong nhà, làm sao cho nông trại ngăn nắp sạch sẽ anh lại không làm được.
Đúng là anh đã tuyên bố chẳng ích lợi gì khi làm việc trên nông trại của mình, đấy là một mảnh đất tiêu điều nhất trong vùng, mọi thứ nơi đó đều sai quấy cả, và cứ sẽ là như thế, dù anh có làm gì đi nữa. Các hàng rào bao quanh căn vườn anh đều sụp đổ. Bò của anh nếu không đi lạc thì cũng phá tàn các luống bắp cải. Cánh đồng của anh bị cỏ mọc nhanh hơn các nơi khác. Mỗi khi anh bắt đầu làm việc thì trời đổ mưa. Mảnh đất thừa kế teo tóp dần dưới sự quản lý của anh, từng mẫu một, cho đến khi chỉ còn lại một miếng nhỏ trồng bắp và khoai tây, đó là nông trại thảm hại nhất trong làng.
Các con của Rip cũng thế, rách rưới và lêu lổng như thể những đứa trẻ không có gia đình. Con trai của anh có các thói quen như cha, mặc quần áo cũ của cha, vừa quá rộng, vừa cẩu thả, khi làm việc cần phải một tay giữ quần, gây thêm trở ngại.
Tuy nhiên, Rip là một trong những người sung sướng, tâm tình ngờ nghệch, dễ dãi, xem cuộc đời như gió cuốn mây trôi, ăn gì cũng được, bánh mì trắng hay đen, miễn sao có cái ăn với ít suy nghĩ, phiền toái, thà không đủ no với một xu hơn là lao động kiếm một đồng bảng. Nếu yên thân một mình, anh sẽ huýt sáo miệng để qua ngày, với vẻ mãn nguyện , nhưng mụ vợ không ngừng trút vào tai anh những lời đay nghiến về cái thói lười biếng, cẩu thả, sự vô tâm và cái suy tàn anh ta gây ra cho gia đình. Sáng, trưa, chiều, cái lưỡi của mụ không ngừng hoạt động và anh làm việc gì cũng bị chê cả. Rip chỉ còn một cách trả lời cho những bài giảng loại đó, và dùng mãi nên trở thành thói quen. Anh nhún vai, lắc đầu, nhắm mắt và không nói gì. Làm như thế chỉ khiến bà vợ nổi cáu thêm, và rốt cuộc anh lấy hết sức lực bỏ đi khỏi nhà - là cách duy nhất một anh chồng sợ vợ có thể làm.
Trong nhà, Rip chỉ có một người bạn duy nhất là con chó Wolf. Con chó này cũng sợ vợ như chủ của nó, vì bà chủ coi cả hai đều lười biếng như nhau, con chó là nguyên nhân khiến chủ nó hư đốn như thế. Thực ra thì, về tất cả phương diện nó là con vật can đảm nhưng lòng can đảm đó chỉ gây ra sự phẫn nộ nơi bà chủ thôi. Mỗi khi đi vào trong nhà, nó cúi đầu, đuôi quặp lại giữa hai chân. Nó lén đi, tránh khoé mắt nhìn và cây chổi của bà Van Winkle. Khi cây chổi hiện ra, nó phóng ra cửa, kêu ăng ẳng
Thời gian trôi qua càng ngày càng tệ hơn đối với Rip. Sự chua ngoa không bao giờ chịu thuần bớt theo tuổi tác, và cái lưỡi cay độc là một công cụ có cạnh, càng dùng thì càng bén. Suốt một thời gian dài. Rip tự an ủi mình anh thường ra ngoài quán rượu giữa làng. Tại nơi này, anh gặp hội những nhà thông thái, hiền triết và một số người vô công rồi nghề ở địa phương. Họ ngồi trên chiếc ghế dài trước quán, nhận biết được nhờ bức ảnh chân dung đỏ rực của Đức Vua George Đệ Tam. Nơi đây cả ngày họ chỉ nói chuyện cà kê, hay kể lại những câu chuyện vớ vẩn không bao giờ dứt. Nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo để nghe những cuộc tranh luận có thể xảy ra, khi tình cờ có tờ báo cũ do khách du lịch bỏ lại rơi vào tay. Họ sẽ trịnh trọng lắng nghe nội dung do thầy giáo Derrick Van Bummel thuật lại, thầy không bỏ sót chi tiết nào, giảng những từ khó nhất trong từ điển để họ bàn cãi về một chuyện đã xảy ra mấy tháng trước.
Những ý kiến của hội này được già làng Nicholas Vedder , vị trưởng lão của làng kiểm soát. Ông ta ngồi ở cửa từ sáng đến tối, chỉ xê dịch chút đỉnh để tránh nắng, sao cho ngồi trọn được trong bóng râm một tàng cây cao, thế nên hàng xóm chỉ cần nhìn sự xê dịch của ông cũng biết ngay là mấy giờ, chính xác như dùng đồng hồ mặt trời vậy. Đúng là hiếm khi người ta nghe ông lên tiếng, chỉ thấy ông rít cái tẩu thuốc không ngừng. Tuy nhiên thủ hạ của ông ( vĩ nhân nào mà không có thủ hạ ) hoàn toàn hiểu cách bày tỏ ý kiến của ông. Nghe đọc hay nghe kể cái gì không hợp ý, ông rít tẩu thực mạnh, nhả ra những luồng khói ngắn, đều đặn và giận dữ, nhưng khi hài lòng, ông hít khói vào chậm rãi và lặng lẽ, rồi nhả khói thành từng cụm mây mỏng lững lờ, và đôi khi, nhấc tẩu ra khỏi miệng để cho làn khói thơm tho vờn quanh mũi, ông nghiêm trang gật gù tỏ vẻ tán thưởng .
Thế mà Rip đen đủi vẫn bị bứng ra khỏi cứ điểm này bởi mụ vợ lắm điều. Bà Van Winkle thường xuất hiện đột ngột nơi cửa quán, phá tan sự yên tĩnh của đám đông và mắng mỏ mọi người là lười biếng, ngay cả Nicolas Vedder vốn không ngại gì miệng lưỡi của người đàn bà này cũng bị bà ta buộc tội là xúi giục chồng bà quen thói lười biếng.
Rip càng lúc càng tuyệt vọng và lối thoát duy nhất của anh để khỏi làm việc và tránh lời chì chiết của vợ là xách súng lang thang vào trong rừng. Tại nơi đây, anh mới cảm thấy an toàn. Anh ngồi dưới gốc cây, chia phần ăn với con chó Wolf mà anh đồng cảm như là kẻ chịu đựng chung nỗi đau bị ngược đãi: “ Wolf đáng thương, bà chủ của mày khiến cuộc đời mày khổ như chó. Nhưng đừng lo, chừng nào tao còn sống, mày vẫn còn có bạn.” Con chó vẫy đuôi, nhìn chủ vừa thương hại, vừa âu yếm.
Vào một ngày mùa thu đẹp trời, Rip vô tình lạc bước đi sâu và lên tận một trong những đỉnh cao nhất trong Rặng núi Catskill. Anh vẫn theo sở thích là săn bắn sóc và nghe tiếng súng nổ. Tới chiều, anh cảm thấy mệt mỏi nên ngồi nghỉ trên một gò đất xanh cỏ, ở trên đỉnh của một vách núi. Nhìn qua khoảng hở giữa các hàng cây, anh thấy một vùng rừng dưới thấp trải dài nhiều dặm. Tận dưới xa, rất xa, anh cũng nhận ra dòng sông Hudson hùng vĩ, đang lặng lẽ nhưng uy nghiêm đi theo con đường của nó, phản chiếu một áng mây tím hoặc in bóng cánh buồm trắng của một chiếc thuyền, nằm ngủ yên đâu đó trên mặt sông sáng như gương, và cuối cùng biến mất trong cao nguyên xanh.
Nhìn xuống phía bên kia, anh thấy một thung lũng sâu, hoang dã, vắng vẻ, cây cối um tùm, dưới đáy lổn chổn những mảnh đá rơi từ vách núi chênh vênh mà những tia nắng phản chiếu của mặt trời sắp lặn không đủ soi sáng. Rip nằm lặng ngắm vẻ trầm tư cảnh tượng này một lúc, Trời sắp tối, bóng núi xanh thẳm bắt đầu đổ dài trên thung lũng. Anh biết về được tới làng thì trời tối từ lâu, rồi anh thở dài khi nghĩ đến việc chạm mặt với những nỗi kinh hoàng của nội tướng Van Winkle.
Khi anh chuẩn bị đi xuống, Rip nghe thấy tiếng gọi từ đằng xa: « Rip Van Winkle! Rip Van Winkle! «. Rip nhìn quanh. Anh không thấy gì mà chỉ là một con quạ đơn độc bay qua núi. Anh nghĩ: “ Chắc là do trí tưởng tượng mà ra.” Rip lại tiếp tục đi khi nghe thấy cũng tiếng gọi khi trước trong buổi chiều tĩnh mịch : “ Rip Van Winkle! Rip Van Winkle! », đồng thời con chó Wolf chồm lên và sủa lớn tiếng, nép mình bên chủ và ngại ngùng nhìn về phía thung lũng. Rip bắt đầu cảm thấy sợ hãi mơ hồ anh cũng nhìn về phía tiếng gọi, và nhận ra một bóng người kỳ quái đang chậm chạp leo lên các tảng đá, gập người vì một vật đeo trên lưng. Rip ngạc nhiên khi thấy một người lạ tại nơi vắng vẻ này nhưng anh nghĩ đây hẳn là một trong những người láng giềng của mình đang cần giúp đỡ, anh vội vàng tới gần.
Khi lại gần, Rip sửng sốt hơn vì hình dáng quái dị của người lạ. Anh này vừa lùn vừa mập, tóc và râu rậm rạp, mặc y phục Hoà Lan của thời cổ, cái áo không tay chít ngang thắt lưng, một lúc mặc mấy cái quần ống ngắn, cái bên ngoài rộng thùng thình, có một dãy nút trang trí dọc hai bên ống quần và một chùm nút ngang chỗ đầu gối. Ông ta vác trên vai cả một thùng tròn có vẻ đầy rượu. Người lạ ra hiệu bảo Rip giúp một tay. Tuy hơi ngại và không tin lắm với người mới gặp này, Rip vốn có tính hay giúp đỡ nên tiến tới gần người lạ và đỡ thùng rượu nơi vai anh ta. Cả hai đi men theo một con rảnh hẹp, chắc là phần khô cạn của con suối trên núi. Cả hai cùng đi lên, chốc chốc Rip lại nghe những tiếng ì ầm kéo dài như tiếng sấm từ đằng xa. Các tiếng động phát ra từ khoảng giữa hai tảng đá lớn mà hai người đang đi tới. Rip đứng lại một lát, nhưng rồi cho rằng phải có mưa và sấm là thứ thường xảy ra trên núi cao nên anh lại tiếp tục đi . Đi qua khe núi, họ tới gần một chỗ trủng như lòng chảo, giống một nhà hát lộ thiên nhỏ, bao quanh bởi những vực dốc đứng, trên bờ vực có mấy cây rủ cành xuống và người ta chỉ có thể thấy bầu trời xanh và những đám mây chiều sáng rực. Trong thời gian Rip và bạn đồng hành cực nhọc làm việc trong im lặng, Rip tự hỏi tại sao người lạ mang thùng rượu lên miền núi hoang dã này, có cái gì đó thật lạ lùng và khó hiểu khiến lo ngại. Rip rất thắc mắc về mục đích của việc vác thùng rượu lên núi, nhưng có một vẻ gì kỳ bí ở nơi người lạ gợi lên sự kinh sợ và chặn đứng mọi sự làm thân.
Bước vào chỗ đất trũng, lại thêm những thứ kỳ lạ hiện ra trước mắt. Trên khoảng đất trống ở chính giữa, các người kỳ dị đang chơi trò ném chai gỗ. Họ mặc y phục kỳ cục, kiểu cổ với áo chẽn, quần túm, một số khác mặc áo khoác không tay, vài người có dao găm dài đeo nơi thắt lưng. Vẻ mặt của họ trông cũng buồn cười. Một người thì râu rậm, mặt bè ra, mắt ti hí như mắt lươn. Một người khác có cái mũi to gần như chiếm cả khuôn mặt và trên đầu đội một cái mũ trắng chóp nhọn gắn một cái đuôi lông gà trống màu đỏ. Ai cũng để râu, theo đủ mọi hình dáng và màu sắc. Một người đàn ông có vẻ là trưởng nhóm. Đó là một ông lớn tuổi dáng khoẻ mạnh, vẻ mặt phong trần, mặc ái chẽn viền đăng ten, thắt lưng rộng bản có quai để đeo gươm, đội mũ chóp cao gắn lông chim, mang vớ đỏ, đi giày cao gót có gắn hoa hồng. Cả nhóm người này làm cho Rip nhớ lại những nhân vật trong một bức tranh cổ xưa của xứ Flanders ở miền bắc nước Bỉ, treo nơi phòng khách của Dominine Van Shaick, ông cha xứ của làng, bức tranh đã được mang tới từ Hoà Lan trong thời gian mới chiếm đóng.
Điều làm cho Rip ngạc nhiên nhất là các người lạ này có vẻ đang vui chơi nhưng lại nghiêm nghị với một sự im lặng kỳ bí, bởi vậy họ là sự mơ hồ của niềm vui mà anh chưa từng chứng kiến. Không có gì làm gián đoạn sự tĩnh lặng của quang cảnh ngoài tiếng động của các quả bóng đụng vào các quả chày cản. Âm thanh dội ra, vang lên trong núi giống như tiếng sấm rền.
Khi Rip và người lạ tới gần, các người lùn ngưng chơi bóng. Họ nhìn chằm chằm vào Rip khiến tim anh đập thình thịch và cặp đùi run lên. Rồi một người trong bọn họ đổ rượu vào các ly lớn và ra dấu cho anh phục vụ . Anh sợ hãi phục tùng và run lên. Họ uống rượu từng hớp trong yên lặng rồi quay ra chơi trở lại.
Sau một lúc, Rip bớt sợ. Khi không còn bị ai nhìn nữa, Rip bắt đầu nếm thử rượu, anh thấy nó có vị của những loại rượu ngon nhất của Hoà Lan. Anh vốn thích uống nên liền bị cám dỗ cứ muốn uống hoài. Một lần nếm rồi dẫn tới lần sau. Anh uống nhiều rượu quá cho tới khi cảm thấy chóng mặt. Mắt của Rip đờ đi và đầu óc suy sụp. Rip sớm chìm vào trong giấc ngủ say.
Khi tỉnh dậy, Rip thấy mình nằm trên gò đất xanh, nơi đã gặp người lạ với thùng rượu. Anh dụi mắt, lúc này là buổi sáng, trời nắng. Chim chóc đang nhảy nhót và hót ríu rít trong các bụi cây. Một con chim diều hâu đang bay là là trên cao. Rip suy nghĩ: “ Chắc là ta đã không ngủ tại nơi này suốt đêm.” rồi anh nhớ lại những gì xảy ra trước khi buồn ngủ. Anh còn nhớ một người kỳ dị với thùng rượu, các người chơi bóng trong núi và anh đã uống rượu nhiều ly.
Rip nghĩ ngợi một cách đau khổ: “ Ta phải vào xin lỗi bà Van Winkle thế nào đây?”
Rip nhìn quanh, tìm khẩu súng nhưng thay cho khẩu súng bắn đạn hoa cải đã từng được lau dầu sạch sẽ, là một khẩu súng hoa mai nằm bên cạnh, nòng súng phồng rộp những gỉ sét, chốt điểm hoả long rời ra, còn báng súng thì bị mối ăn sâu đục. Anh nghĩ rằng các người kỳ dị trong núi đã trêu chọc anh. Anh nói: “ Họ đã đổ rượu cho ta uống rồi lấy khẩu súng đi.” Con chó Wolf cũng biến mất, Rip huýt sáo nhiều lần mà chẳng thấy con vật. Có tiếng dội lại tiếng huýt và la của anh, nhưng vẫn không thấy con chó đâu.
Rip quyết định trở lại nơi mà anh đã trải qua ban đêm, tự bảo mình “ nếu ta gặp một trong các người đó, ta sẽ đòi lại con chó và khẩu súng.” Rip đứng dậy một cách khó khăn. Người anh cứng đờ khiến anh di chuyển nặng nề. Rip nói:” Ngủ trên nền đá cứng này không hợp với ta, và nếu cuộc vui này khiến ta đau nhức thì khó mà ăn nói với bà Van Winkle. Anh khó nhọc tìm ra được con đường mòn mà anh từng đi với người lạ. Khi tới các tảng đá, anh ngạc nhiên với một dòng suối chảy qua nơi đây. Tuy nhiên, anh cố trườn lên phía hai bên, khó nhọc len qua các bụi cây, thỉnh thoảng vướng vào những dây leo cây nho tạo thành vòng trên đường anh đi.
Không có cách nào đi qua giữa hai tảng đá. Không còn dấu vết nào của khoảng đất trống. Chỉ có một bức tường đá cao từ đó nước đổ xuống. Anh gọi con chó nhiều lần. Chỉ có tiếng quạ trả lời, chúng đang ở trên cao một ngọn cây khô ráo, nhìn xuống người đàn ông đang bối rối.
Phải làm gì bây giờ? Buổi sáng đã trôi qua và Rip thèm bữa ăn sáng. Anh không muốn về nhà với vợ, nhưng chẳng lẽ chết đói trong miền núi này sao. Vì vậy Rip lắc đầu, rồi đặt khẩu súng rỉ sét lên vai và buồn bã hướng về nhà.
Khi gần tới làng, Rip nhìn thấy nhiều người nhưng không có ai anh quen. Điều này làm cho anh ngạc nhiên bởi vì anh biết rõ từng người sống nơi đây. Quần áo của họ cũng khác lạ, không giống thứ anh từng biết. Các người dân làng nhìn chằm chằm vào Rip với vẻ ngạc nhiên. Rip nhận ra rằng khi họ nhìn anh, họ sờ vào cằm của họ. Cử chỉ này cứ lặp đi lặp lại khiến Rip không suy nghĩn cũng làm theo. Quá ngạc nhiên, Rip thấy bộ râu của mình đã dài tới ba tấc.
Tới lúc này, Rip đi vào trong làng. Một nhóm trẻ em lạ đi theo gót anh. Chúng la hét và trêu chọc anh, chỉ vào bộ râu dài. Các con chó cũng sủa lớn khi anh đi qua. Ngôi làng này có vẻ khác trước, vừa rộng hơn vừa đông người hơn. Có các dãy nhà mà Rip chưa hề thấy trước kia và các căn nhà mà anh ghi nhớ nay đã biến mất. Các tên lạ được gắn trên cửa nhà. Các bộ mặt lạ xuất hiện nơi cửa sổ. Mọi người đều xa lạ.
Đầu óc Rip quay cuồng. Anh tự hỏi phải chăng anh và thế giới chung quanh đã bị mê hoặc. Chắc chắn đây phải là ngôi làng của anh. Anh vừa mới rời khỏi làng ngày hôm trước! Đã từng có các đồi và thung lũng của Rặng Catskill. Nơi xa xa là dòng sông Hudson màu bạc đang chảy. Rip suy nghĩ: “ Bình rượu kia đã làm cho đầu óc của ta rối loạn.”
Rip tìm lối về nhà một cách khó nhọc. Anh lại gần nhà với nỗi e sợ. Mỗi lúc anh trông đợi nghe thấy giọng nói đanh thép của bà Van Winkle. Anh thấy căn nhà suy tàn rất nhiều. Mái đã đổ, cửa sổ bể hết, cánh cửa lớn long bản lề. Một con chó đói trông giống con Wolf đang lừ đừ canh chừng. Rip gọi tên nó nhưng con chó gầm gừ và nhe răng nhọn rồi bỏ đi. Rip thở dài: Con chó của ta cũng bỏ ta nữa.
Rip đi vào trong nhà, căn nhà mà nói thật là lúc nào bà Van Winkle cũng giữ ngăn nắp. Bây giờ nó trống trải, yên lặng, và có vẻ như bị bỏ hoang. Sự hoang vắng khiến anh lo sợ. Anh lớn tiếng gọi vợ và con nhưng chỉ vang lên tiếng của anh rồi tất cả đều im lặng.
Rip vội bước tới nơi hội họp cũ, quán rượu trong làng. Nhưng quán này cũng không còn nữa. Trên nền cũ đang là một căn nhà gỗ lớn, đã ọp ẹp, những cửa sổ lớn trống hoắc, một số đã vỡ kính được che lại bằng những chiếc mũ cũ và váy xoè, trên cửa chính là dòng chữ kẻ bằng sơn: “ Khách sạn Đoàn Kết, sở hữu chủ Jonathan Doolittle “ Thay cho cái cây lớn trước cửa quán là một cột cờ cao trên ngọn có một lá cờ vẽ một tập hợp kỳ quái gồm các ngôi sao và vạch sọc đang bay trong gió nhẹ. Mọi thứ đều lạ và bí ẩn. Chỉ có một vật quen thuộc được vẽ trên cửa, đó là bộ mặt hồng hào của Vua George. Dưới chính bức vẽ này Rip đã từng hút thuốc và nói chuyện với bạn bè. Và bức ảnh vua cũng bị thay đổi luôn. Chiếc áo màu đỏ bây giờ trở thành màu xanh và vàng. Ông ta đội trên đầu một chiếc mũ thay vì vương miện, phía dưới có dòng chữ: Tướng Washington.
Trong quán cũng khá đông người như thường lệ, nhưng Rip không nhận ra ai. Tính cách của họ cũng thay đổi. Bây giờ là tiếng tranh luận ồn ào, thay vì sự im lặng cố hữu và sự yên bình đến buồn ngủ của ngày xưa. Rip cố tìm Nicholas Vedder với khuôn mặt rộng, cằm đôi, ngậm ống vố dài, nhả khói thay cho lời nói, hoặc tìm Van Bummel, thầy hiệu trưởng, cứ than van về nội dung các bài báo nhưng chẳng thấy đâu. Thay vào đó là một anh chàng ốm o trông như người đau gan, túi nhét đầy những tờ truyền đơn cổ động, đang hô hào nhiệt tình về các vấn đề dân quyền, bầu cử, tự do, trận đánh trên đồi Bunker, quốc hội, những anh hùng năm 76. Đối với anh đang bỡ ngỡ, các từ ngữ bí hiểm này chẳng mang ý nghĩa gì.
Sự xuất hiện của Rip, với bộ râu dài đã bạc, với cây súng gỉ sét và bộ y phục quê kệch, và một đám đàn bà con nít theo sau, lôi cuốn sự chú ý của các nhà chính tri nơi quán rượu, Họ vây quanh anh, tò mò nhìn anh từ đầu đến chân. Nhà diễn thuyết tách anh riêng ra và hỏi: “ Ông bầu cho phe nào? “ Rip ngơ ngác không hiểu gì. Một người lùn tiến tới nắm lấy tay anh và nói sát tai anh: “ Phía Liên bang hay Dân chủ ? “ Rip không hiểu câu hỏi. Khi đó một người lớn tuổi, ra vẻ hiểu biết, đội mũ nhọn, tách đám đông ra hai bên và tới gần Van Winkle, một tay chống nạnh, một tay chống cây gậy, mắt nhìn tinh anh, dõng dạc lên tiếng. “ Sao lại tới bầu cử mà mang theo súng trên vai, phải chăng muốn gây bạo loạn? “ “ Ôi, trời ơi! Các ông ơi! “ Rip kêu lên : “ Tôi chỉ là một người khốn khổ, dân địa phương này, thần dân trung thành với nhà vua. Cầu ơn trên che chở cho Ngài.”.
Mọi người đứng đó bật la lớn: “ Một tên bảo thủ thân Anh! Một người theo đảng Tory! Hắn là một gián điệp, tống cổ nó đi ! “ Ông già tỏ vẻ quan trọng hồi nãy khó khăn lăm mới vãn hồi trật tự, lấy vẻ nghiêm trang nhân mười lần ứng với mười nếp nhăn trên trán, tra hỏi tên tội nhân vô danh, hỏi lại là vì sao ông đến đây, ông muốn tìm ai.
Rip đáng
thương cố gắng giải thích rằng mình không làm hại ai mà chỉ muốn tìm kiếm vài
người bạn mà anh thường gặp nơi quán rượu. Một người nói: “ Vậy họ là ai? Kể
tên ra!” Rip suy nghĩ một lúc lâu rồi nói: “ Nicolas Vedder bây giờ ở đâu?” Sau
một lúc yên lặng, một ông già đáp lại bằng giọng yếu ớt: “ Nicolas Vedder hả?
Ông ta đã chết 18 năm rồi! Ông ta được chôn trong sân nhà thờ!” “ Thế Brown Dutcher
ở đâu? “ “ Ông ta đã theo quân ngũ từ đầu cuộc chiến và không thấy trở về.” “
Còn Brom Dutcher đâu rồi ? “ “ Ông ta cũng tham gia quân đội khi chiến tranh mới
bắt đầu, có người nói ông đã thiệt mạng ở trận đột kích Stony Point, người khác
lại nói ông bị chết đuối trong cơn bão ở chân mũi Anthony. Tôi chẳng biết nữa.
Ông ta không trở về. “
“ Thế còn Van Bummel, thầy hiệu trưởng? “
“ Ông ấy cũng tham gia chiến tranh, đã từng là một vị tướng, bây giờ ông ở trong Quốc hội.”
Rip buồn rầu khi nghe những thay đổi này ở nhà và thấy mình cô đơn quá. Mọi câu trả lời đều làm anh bối rối. Có những điều mà anh không hiểu nổi: Quốc hội! Chiến tranh! Cuối cùng Rip tuyệt vọng nói: “ Tại đây có ai biết Rip Van Winkle không?” Một người trả lời: “ Ồ, chắc rồi, Rip Van Winkle ở đằng kia, đang tựa vào cái cây ấy! “ Rip quay người lại nhìn về hướng ấy và thấy bản sao chính xác của mình khi đi vào trong núi, trông vừa lười biếng, vừa rách rưới. Anh Rip đáng thương lúc này hoàn toàn bối rối. Anh không biết rằng chính mình còn là mình hay là một người khác. Vào lúc này, một người hỏi: “ Ông là ai?” Rip kêu lên: “ Tôi không biết! Tôi không còn là tôi nữa! Tôi ở đằng kia hả? Không, đó là một người khác đã ăn mặc giống tôi! Tôi là tôi tối hôm qua. Nhưng tôi đã ngủ trong núi và khẩu súng của tôi bị tráo. Mọi vật đều thay đổi. Tôi không còn biết tên tôi là gì và tôi là ai.”
Mọi người nhìn nhau, lắc đầu buồn bã. Họ gõ tay vào trán suy nghĩ. Có người nói nhỏ về việc tước đi khẩu súng trước khi ông già này có thể làm hại ông ta hay người khác. Rồi một phụ nữ trẻ len qua đám đông, nhìn ông già có bộ râu bạc. Bà này bế một đứa bé bụ bẫm trong tay. Đứa bé la khóc khi nhìn thấy ông già râu rậm. Bà ta bảo nhỏ đứa bé: “ Im đi! Rip, ông già này không làm hại con đâu!” Tên của đứa bé và giọng nói của người mẹ làm cho Rip giật mình. Anh hỏi: “ Tên chị là gì?” “ Judith Gardenier! “ “ Còn tên cha của chị? “ Bà ta trả lời: “ À, một người đàn ông đáng thương, tên là Rip Van Winkle. Nhưng đã 20 năm từ khi ông bỏ nhà ra đi, không ai nghe nói về ông ta nữa. Con chó đã trở về nhà mà không có ông ấy. Không ai biết ông đã tự sát hay bị đạn lạc, lúc đó tôi còn là một đứa bé.”
Rip hạ giọng hỏi thêm một câu:” Mẹ của chị bây giờ ở đâu?” “ Ồ, bà ấy đã chết không lâu sau đó, do cãi nhau với anh chàng bán dạo từ New England “
Cuối cùng cũng còn một chút tin vui. Rip thật thà không kìm lòng được lâu hơn nữa. Ông ta choàng tay quanh người cô gái và đứa bé. Anh la lên “ Ta là cha của con đây, ta đã là Rip Van Winkle vào thời đó! Bây giờ ta là ông già Rip Van Winkle “ . Rip quay về đám đông: “ Có ai đây biết anh chàng Rip Van Winkle đáng thương không?
“ Mọi người yên lặng. Rồi một bà cụ từ trong đám đông lảo
đảo bước ra, che tay ngang mày, trố mắt nhìn Rip một hồi rồi nói:
“ Chắc rồi! Đây là Rip Van Winkle. Chính là Rip! Chào mừng anh trở về, anh bạn láng giềng! Tại sao và anh đã ở đâu trong 20 năm qua?”
Rip kể lại câu chuyện. Hai mươi năm trường đối với Rip chỉ là một đêm trôi qua. Các người dân làng lắng nghe và lắc đầu. Họ không dám tin. Nhưng rồi sau đó, họ thấy ông già Peter Vanderlink bước chậm chạp trên đường. Họ quyết định hỏi ông ta nghĩ sao. Peter là người già nhất trong làng. Peter nhận ra ngay Rip. Ông ta chấp nhận câu chuyện của Rip là sự thực. Ông cắt nghĩa rằng Rặng núi Catskill thường có những người lạ lui tới. Ông nói một cách trịnh trọng: “ Quả thực, ông Hendrik Hudson đã tìm ta dòng sông và mỗi 20 năm, ông ta đều trở lại với nhóm người khi tuần trăng bán nguyệt. Bằng cách này, ông ta và các thuộc hạ có thể kiểm soát dòng sông.”
Ông già Peter tiếp tục kể:” Tại sao hả, cha tôi đã một lần trông thấy họ tại thung lũng trong miền núi. Họ mặc y phục Hoà Lan và chơi chín quả bóng. Ông Peter cũng lắc đầu một cách nghiêm nghị. “ Vào một buổi chiều mùa hè, chính tai tôi nghe thấy họ chơi bóng gỗ với âm thanh gây ra giống như tiếng sấm.”
Câu chuyện bị cắt ngắn vì đám đông giải tán và quay về cuộc bầu cử. Người con gái của Rip dẫn ông về cư ngụ với gia đình chị. Cô này kết hôn với một nông dân vui vẻ. Rip còn nhớ anh chàng này là một đứa trẻ đã từng leo lên lưng của mình. Còn về con trai của Rip, cậu được mướn làm công cho một nông trại. Giống như cha, cậu giỏi việc của người khác còn việc của mình thì dở.
Bây giờ, Rip đã lấy lại thói quen cũ, cũng tìm lại được những người bạn cũ, tuy họ đã tệ hại hơn vì tuổi già, và thích kết bạn với thế hệ đang lên mà ông dành cho nhiều đặc ân hơn.
Chẳng có việc gì để làm, và cũng đã đến cái tuổi con người có thể lười biếng, ông thường ngồi nơi cái ghế dài trong quán, nhắc chuyện “ trước chiến tranh “. Đôi lúc, ông lại sa vào thói ngồi lê đôi mách hoặc nhắc lại những sự kiện kỳ quái đã xảy ra trong thời gian ông ngủ mê. Bằng cách nào mà đã có một cuộc chiến tranh cách mạng xảy ra, đất nước đã thoát khỏi ách đô hộ của nước Anh cũ - và, từ đó, thay vì làm thần dân của Vua George , bây giờ ông là công dân tự do của Hoa Kỳ. Đúng là Rip chẳng phải là chính trị gia, những sự thay đổi về thể chế và chế độ không gây chú ý mấy nơi ông, nhưng có một hình thái của chế độ chuyên quyền mà ông phải chịu đựng, đó là quyền lực của phái nữ. May thay điều này đã chấm dứt, ông đã thoát khỏi sự kềm kẹp của nữ quyền, có thể đi đến nơi nào mình muốn, khỏi sợ hãi bạo lực của bà Van Winkle. Tuy vậy, mỗi lần nhắc đến tên bà, ông lại lắc đầu, nhún vai và ngước mắt, có thể coi đó là dấu hiệu của sự cam chịu số phận, hoặc niềm vui được giải thoát.
Ông có thói quen kể chuyện của mình cho bất kỳ người lạ nào đến khách sạn của ông Doolittle. Ban đầu, ông chú ý thay đổi vài điểm mỗi lần kể, có lẽ do ngày càng tỉnh táo hơn. Cuối cùng là câu chuyện giống như tôi đã kể, mà không một người nào, đàn ông, đàn bà, trẻ em, không thuộc nằm lòng. Vài người nghi ngờ tính xác thực của câu chuyện, và nhấn mạnh rằng Rip đã mất trí, và đây là điểm chứng tỏ ông gàn dở. Ngược lại, những người Hoà Lan cổ thì hoàn toàn tin tưởng.
Ngay cả tới ngày nay, mỗi khi nghe thấy tiếng sấm vào buổi trưa hè, nhiều người còn nói rằng đó là do ông Hendrik Hudson và nhóm người của ông ta chơi bóng gỗ trong Rặng núi Catskill. Và ở trong vùng, các ông chồng kém may mắn như Rip Van Winkle đôi khi mong ước được uống một chén rượu tiên đưa vào giấc ngủ dài.