Alice Ann Munro sinh tại Wingham, Ontario, trong một đại gia đình nông
dân. Bà được học bổng của đại học Western Ontario, về sau chuyển sang
Vancouver. Từ năm 1963, bà điều hành một hiệu sách ở Victoria, British
Columbia, sau đó trở về Onrario năm 1972. Hiện nay, sống tại Comox, British
Columbia và Clinton, Ontario. bà chyên viết truyện ngắn. Trong suốt năm
1950-1960, các truyện ngắn của bà được CBC phát thanh trên làn sóng và đăng tải
trên nhiều tạp chí. Từ đó, truyện của bà được giới thiệu bởi các tạp chí văn
học tên tuổi như The New Yorker, The Paris review, Atlantic Monthly.
Các giải thưởng quan trọng:
Governor General's Literary Award for English language fiction (1968,
1978, 1986). Canadian Booksellers Award
(1971). Shortlisted for the annual (UK) Booker Prize for Fiction (1980).
The Writers' Trust of Canada's Marian Engel Award (1986). Rogers Writers' Trust
Fiction Prize (2004). Trillium Book Award for Friend of My Youth (1991). WH
Smith Literary Award (1995, UK). Lannan Literary Award for Fiction (1995).
PEN/Malamud Award for Excellence in Short Fiction (1997). National Book Critics
Circle Award (1998, U.S.). Giller Prize (1998 and 2004). Rea Award for the
Short Story (2001). Edward MacDowell Medal for outstanding contribution to the
arts by the MacDowell Colony (2006). O. Henry Award for continuing achievement
in short fiction in the U.S. (2012). Man Booker International Prize (2009, UK).
Commonwealth Writers Prize Regional Award for Canada and the Caribbean. và Nobel
Prize in Literature (2013).
Tác phẩm:
Dance of the Happy Shades –1968./ Lives of Girls and Women –1971./ Something I've Been Meaning to Tell You – 1974./ Who Do You Think You Are? – 1978. /The Moons of Jupiter – 1982./ The Progress of Love – 1986. / Friend of My Youth – 1990. / Open Secrets – 1994./ The Love of a Good Woman – 1998./ Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage – 2001./ Runaway – 2004./ The View from Castle Rock – 2006./ Too Much Happiness – 2009./ Dear Life – 2012./ A Wilderness Station: Selected Stories, 1996./ No Love Lost – 2003./ Vintage Munro – 2004./ My Best Stories – 2009./ New Selected Stories – 2011./ Lying Under the Apple Tree. 2011./ Family Furnishings: Selected Stories 1995–2014.
Truyện ngắn
THỊ TRẤN AMUNDSEN
Tôi ngồi đợi trên băng ghế bên ngoài nhà ga đã đóng cửa, trước đó, cửa
mở khi tàu đến. Một phụ nữ ngồi ở cuối ghế, ôm một cái túi thắt dây chứa đầy
đồ, kẹp giữa hai chân. Thịt, thịt sống. Tôi có thể ngửi được mùi này.
Bên kia đường rầy, con tàu điện trống trơn đang chờ đợi. Không có hành
khách nào. Một lúc sau, người quản lý nhà ga thò đầu ra ngoài cửa sổ và gọi,
“San”. Tôi nghĩ ông gọi một người đàn ông tên “Sam”. Rồi một người đàn ông mặc
bộ đồ đồng phục thuộc công ty nào đó đi ra từ cuối tòa nhà. Băng qua đường rầy,
leo lên tàu điện. Người phụ nữ mang túi thịt đứng lên, đi theo ông, tôi đi theo
cô ta. Có tiếng la hét vang lên từ phía bên kia đường. Cánh cửa tòa nhà mái
ngang màu sậm mở ra, xuất hiện một số đàn ông đội mũ và mang xách đồ ăn trưa
lủng lẳng đập vào đùi của họ. Tiếng ồn ào như thể họ đang tranh nhau lên cho
kịp con tàu có thể chạy bất cứ lúc nào, sợ bỏ họ lại. Nhưng khi đám đàn ông đã
vào chỗ ngồi, không có gì bất ổn xảy ra. Họ đếm đầu người, tìm thấy ai đó vắng
mặt và nói với tài xế khoan đi. Nhưng một người sực nhớ đã không thấy người
vắng mặt ấy suốt cả ngày. Tàu bắt đầu chạy, không biết tài xế có nghe hoặc quan
tâm đến chuyện xảy ra hay không.
Đám đàn ông xuống tàu tại một hãng cưa nằm sau dãy bụi cây, nếu đi bộ
chỉ mất hơn mười phút, ngay sau đó, thấy một hồ nước có tuyết bao phủ. Một tòa
nhà dài bằng gỗ màu trắng nằm phía trước. Người phụ nữ sửa soạn túi hàng rồi
đứng lên, tôi đi theo. Ông tài xế kêu lớn “San”, cửa tàu mở. Vài phụ nữ đang
chờ leo lên. Họ chào người phụ nữ với túi hàng, cô ta nói, hôm nay là ngày rất
lạnh. Tất cả đều tránh nhìn tôi, khi tôi leo xuống kế theo cô.
Cửa đóng lại, tàu chạy tiếp tục. Im lặng. Không khí lạnh như băng. Những
cây Bạch dương trông dễ gãy có những vết đen trên vỏ trắng, một số cây Trường
sinh nhỏ và xác xơ, cuộn lại như bầy gấu đang ngủ. Mặt hồ đóng băng không bằng
phẳng đắp dọc theo bờ biển nhìn giống như sóng đóng thành băng khi đang đổ
xuống. Và tòa nhà, chủ ý có dãy cửa sổ và các mái hiên bằng kính ở hai đầu. Tất
cả đều chân phương kiểu miền bắc, đen và trắng dưới vòm mây cao. Vẫn vậy, bao
la một cách mê muội. Nhưng rốt cục, vỏ cây Bạch dương không phải màu trắng, khi
bạn đến gần hơn, Xám hơi vàng, hơi xám xanh, và xám.
Người phụ nữ mang túi thịt gọi tôi: “Chị định đi đâu? Thăm viếng hết lúc
3 giờ.”
“Tôi không đi thăm. Tôi là cô giáo mới.”
“Họ sẽ không cho chị vào cửa trước đâu.” Cô ta nói với vẻ hài lòng. “Tốt
hơn là chị nên đi với tôi. Chị có hành lý không?”
“Ông quản lý nhà ga nói sẽ mang đến sau.”
“Cách chị đứng ngơ ngác, giống như người đi lạc.”
Tôi trả lời, tôi dừng chân vì muốn ngắm phong cảnh đẹp.
“Một số người cũng nghĩ như vậy, ngoại trừ họ bị bệnh hoặc quá bận rộn.”
Không còn gì để tiếp tục nói, cho đến khi chúng tôi bước vào nhà bếp, ở
tận cuối tòa nhà. Không có cơ hội nhìn ngắm chung quanh, vì tôi đang để ý đôi
ủng.
“Chị nên cởi giày để khỏi giẫm dơ sàn nhà.”
Vật lộn với cởi giày, không có ghế ngồi, tôi ngồi lên tấm thảm lót nơi
người phụ nữ kia để giày.
“Chị xách giày theo. Không biết họ sẽ sắp xếp chị ở đâu. Nhớ cầm theo áo
khoác. Không có máy sưởi trong phòng chờ treo áo choàng.”
Không hơi sưởi, không ánh đèn, ngoài trừ những gì xuyên qua cánh cửa sổ
nhỏ mà tôi không thể với tới. Tương tựa như bị cấm túc ở trường học. Trong
phòng treo áo. Vẫn mùi hôi của áo quần mùa đông ẩm ướt chưa bao giờ khô từ đôi ủng thấm qua vớ bẩn, đôi chân dơ.
Tôi trèo lên băng ghế nhưng vẫn không thể nhìn ra ngoài. Trên cái kệ để
mũ và khăn quàng cổ, tìm thấy cái túi đựng quả sung và chà là. Chắc ai đó đã
lấy trộm, cất giấu ở đây, để mang về nhà. Đột nhiên, tôi cảm thấy đói. Từ sáng
sớm, ngoại trừ chiếc bánh sandwich phô-mai khô ở Ontario Northland, tôi chưa ăn
gì khác. Tôi cân nhắc về đạo đức của một tên trộm. Nhưng quả sung đã phản bội
tôi, mắc vào răng. Tôi leo xuống đúng lúc, có người bước vào.
Không phải người giúp việc trong bếp, một nữ sinh mặc chiếc áo lạnh dày
cộm với khăn quấn cổ quàng lên tóc. Bước vào vội vã, làm rớt mấy cuốn sách lên
băng ghế, văng vãi xuống đất, khăn quàng bị giật mạnh, tóc cô lộ ra rối bung,
đồng thời, dường như, đôi giày ủng bị sút, trợt lên sàn nhà. Chắc không có ai
cho cô ta biết phải tháo giày ở cửa bếp. Cô lớn tiếng:
“Ô, tôi không cố ý làm trúng bà. Từ ngoài sáng bước vào, trong này tối
quá. không thấy gì, đâu biết chuyện gì. Bà có lạnh không? Có chờ ai đi làm về không?”
“Tôi chờ gặp bác sĩ Fox.”
“Vâng, không cần phải chờ lâu. Tôi vừa đi xe từ phố đến với ông ta. Bà
không có bệnh, phải không? Nếu bị bệnh, không thể đến đây. Phải gặp bác sĩ
ngoài phố.”
“Tôi là cô giáo mới.”
“Có phải bà đến từ Toronto?”
“Vâng.”
Có một khoảng im lặng, có lẽ vì tôn trọng.
Không phải, để dò xét áo khoác của tôi.
“Áo đẹp quá, trên cổ áo là lông gì vậy?”
“Lông cừu Ba Tư. Thật ra là lông giả.”
“Cũng đã lừa được tôi. Không biết họ đưa bà đến đây làm gì, lạnh tê mông
luôn. À, xin lỗi nha. Bà muốn gặp bác sĩ, tôi chỉ đường cho. Tôi biết hết mọi
thứ ở nơi nào. Tôi sống ở đây từ khi sinh ra. Mẹ tôi điều hành nhà bếp. Tôi tên
Mary, còn bà?”
“Vivi. Vivien.”
“Nếu bà là cô giáo, nên gọi bằng cô, phải không? Cô gì đây?”
“Cô Hyde.”
“’Làm da rám nắng’ Xin lỗi, em chỉ nghĩ đại ý nghĩa tên cô vậy thôi. Em
thích nếu cô có thể làm cô giáo của em, nhưng em phải đi học trong phố. Luật lệ
ngu xuẩn. Vì em không bị bệnh lao.”
Vừa nói, vừa dẫn tôi đi, băng qua cánh cửa cuối phòng treo áo, rồi đi
dọc theo hành lang bệnh viện. Có vải sơn dầu, bạt màu xanh lá cây, bốc mùi
thuốc sát trùng.
“Bây giờ, cô đã đến đây, có lẽ, em sẽ xin Reddy cho đổi chỗ.”
“Reddy là ai?”
“Reddy Fox. Nói lén nha. Em và
Anabel mới bắt đầu gọi tên Bác sĩ Fox.”
“Anabel là ai?”
“Chị ấy chết rồi.”
“Ô, xin lỗi.”
“Không sao. Chuyện này vẫn xảy ra ở đây. Em vào trung học năm nay.
Anabel chưa bao giờ thực sự đi đến trường. Khi em mới vào trường công, Reddy
xin phép thầy giáo cho em ở nhà nhiều ngày để làm bạn với chị ấy.”
Cô nữ sinh dừng lại trước một cánh cửa hé mở rồi huýt gió.
“Này, em mang cô giáo đến.”
Giọng nói đàn ông cất lên, “OK. Mary. Hôm nay, em đã làm đủ rồi.”
Cô ta thong dong bước đi, bỏ tôi lại đối diện với một người đàn ông có
chiều cao bình thường, mái tóc màu nâu đỏ, cắt ngắn và lấp lánh dưới ánh đèn từ
hành lang.
“Cô đã gặp Mary. Cháu này lắm chuyện. Sẽ không ở trong lớp của cô, không
cần phải chịu đựng nó mỗi ngày. Ai cũng vậy, gặp nó hoặc thích ngay hoặc không
thích một chút nào.”
Anh ta làm tôi kinh ngạc, có vẻ lớn hơn tôi khoảng mười đến mười lăm
tuổi. Lúc đầu, chuyện trò với tôi như một người đạo mạo. Một ông chủ bận tâm
chuyện tương lai. Hỏi thăm chuyến đi, chuyện sắp xếp hành lý. Anh muốn biết tôi
nghĩ gì khi phải sống ở đây trong rừng, so với ở Toronto, liệu có bị buồn chán
không?
Tôi trả lời, không đến nổi nào, rồi thêm vào, cảnh trí ở đây rất đẹp.
“Giống như là, … tương tựa như ở trong tiểu thuyết Nga.”
Lần đầu tiên, anh ta nhìn tôi chăm chú.
“Thật không? Tiểu thuyết nào của Nga?”
Đôi mắt sáng màu xanh xám. Một lông mày nhướng lên, như chiến mũ lưỡi
trai nhỏ.
Không phải chưa đọc tiểu thuyết Nga. Tôi đã đọc hết một số sách, còn một
số khác chỉ đọc từng phần. Nhưng vì chiếc lông mày đầy vẻ thích thú, đối diện
với biểu cảm này, tôi không thể nhớ một đề sách nào ngoài trừ “Chiến Tranh và
Hòa Bình”. Tôi không muốn nói vì tên sách này ai cũng biết.
“Chiến Tranh và Hòa Bình.”
“Thế nào, ở đây chỉ có hòa bình. Nhưng nếu có chiến tranh mà cô muốn
nói, tôi e rằng cô sẽ phải tham gia vào đoàn phụ nữ mặc đồng phục và đi đến các
quốc gia ngoại quốc.”
Vừa tức giận vừa nhục nhã, vì tôi không có ý định làm nổi, không khoe
khoang. Chỉ muốn giải thích cảm giác đối với cảnh đẹp. Rõ ràng, anh ta là loại
người đặt câu hỏi để người khác rơi vào bẫy.
“Tôi nghĩ, tôi thực sự mong đợi một bà giáo lớn tuổi mộc mạc,” anh nói,
một cách xin lỗi nhẹ nhàng. “Cô không đi học để trở thành cô giáo, phải không?
Cô định làm gì khi tốt nghiệp cử nhân?”
“Tiếp tục lấy M.A.” trả lời nhát gừng.
“Chuyện gì đã làm cô đổi ý?”
“Tôi cần tiền.”
“Hợp lý. Nhưng e rằng cô không kiếm được nhiều tiền ở đây. Xin lỗi nếu
tôi nhiều chuyện. Tôi chỉ muốn bảo đảm, cô không bỏ dỡ giữa chừng, để chúng tôi
trong tình trạng bấp bênh. Cô chưa dự định lấy chồng, phải không?”
“Không.”
“Được rồi. Được rồi. Bây giờ cô có thể đi. Tôi không làm cô nản lòng,
phải không?”
Tôi đã quay lưng bước đi. “Thưa, không.”
“Đi dọc theo hành lang đến văn phòng của Matron, cô ấy sẽ cho cô biết
tất cả những việc gì cần làm. Đề phòng bị cảm lạnh. Tôi không nghĩ cô có mấy
kinh nghiệm gì về bệnh lao?
“Vâng, tôi có đọc.”
“Tôi biết, tôi biết, cô đã đọc “The Magic Mountain.”
Một cái bẫy khác bung ra và dường như anh ta đang cài thêm. “Tôi hy
vọng, mọi việc sẽ tiến triển hơn một chút. Ở đây, tôi đã viết một số điều về
những đứa trẻ và những gì tôi nghĩ cô có thể làm thử với chúng nó. Đôi khi, tôi
thích diễn tả tâm trí bằng cách viết xuống. Matron sẽ cho cô biết thêm chi
tiết.”
Trong chỗ này, các quan niệm về sư phạm trở thành lỗi thời. Một số trẻ
em sẽ trở về lại xã hội và đời sống bên ngoài; còn một số khác thì không. Tốt
hơn là đừng quá căng thẳng. Chỉ cần, thử
nghiệm, ghi nhớ, phân loại những thứ vô nghĩa …
(Ghi chú của bác sĩ Fox)
Bỏ qua hoàn toàn các trình độ. Những trẻ em nào cần, về sau có thể sẽ
bắt kịp hoặc không cần cũng không sao. Thật ra, chỉ cần một số khả năng đơn
giản để làm việc ...v…v… cần đủ để nhập vào đời sống. Còn những trẻ em ‘Hoàn
Hảo’ thì sao, họ được gọi như vậy? Một tên gọi dị dợm. Nếu họ học hành thông
minh, sẽ dễ dàng đuổi kịp.
Quên đi những con sông Nam Mỹ, Hiến chương Margna Carta cũng vậy.
Ưu tiên cho vẽ, âm nhạc, kể truyện.
Trò chơi, cũng được, nhưng đề phòng vượt qua khả năng hoặc cạnh tranh
quá sức.
Thách thức đi giữa áp lực căng thẳng và buồn nản. Chán chường chửi rủa
trong bệnh viện.
Nếu Matron không thể cung cấp những gì cô cần, đôi khi, người phục dịch
đã cất giấu đâu đó.
Chúc làm việc vui vẻ.
Tôi không có mặt ở đó một tuần lễ trước khi tất cả mọi sự kiện của ngày
đầu tiên dường như duy nhất và khó xảy ra. Nhà bếp, phòng treo áo trong bếp cho
các công nhân giữ áo khoác và cất giấu đồ trộm cắp, căn phòng mà tôi chưa từng
trở lại và có lẽ, sẽ không bao giờ. Văn phòng bác sĩ cũng ở bên ngoài, phòng
của Matron là nơi thích hợp cho mọi thắc mắc, khiếu nại, và sắp xếp thông dụng.
Cô ta thấp và mập, mặt hồng hào, đeo kính không gọng và thở mệt nhọc. Dường
như, yêu cầu bất cứ điều gì cũng làm cô ngạc nhiên, ra vẻ khó khăn, nhưng sau
cùng cũng được giải quyết. Đôi khi, cô ăn trong phòng ăn của y tá, nơi cô được
phục vụ món ăn đặc biệt và món tráng miệng (*). Hầu hết cô ăn trưa trong khu
vực cô làm.
Ngoài Matron, có ba cô ý tá đăng ký khác, không có ai trạc độ tuổi ba
mươi như tôi. Họ đã về hưu sau thời kỳ phục vụ chiến tranh. Thêm ba y tá phụ,
vào cỡ tuổi tôi hoặc trẻ hơn. Hầu hết họ đã kết hôn hoặc đính hôn, đại khái với
những đàn ông trong quân đội. Họ trò chuyện liên miên nếu Matron và các y tá
đăng ký vắng mặt. Họ không để ý đến tôi; không muốn biết Toronto ra sao, cho dù
một trong bọn họ đã hưởng tuần trăng mật ở đó. Không quan tâm tôi dạy học như
thế nào hoặc trước đây tôi làm gì. Không phải họ thô lỗ, họ đưa tôi miếng bơ
(tuy gọi là bơ nhưng là loại bơ thực vật có vệt màu vàng, màu nhà bếp), rồi họ
cảnh cáo về chiếc bánh chăn cừu, có thể có thịt nhím trong đó. Chỉ là bất cứ
điều gì xảy ra ở những nơi họ không biết, đều bị giảm thiểu. Những chuyện đó
làm họ khó chịu. Mỗi khi đài phát thanh đọc tin tức, họ đổi qua âm nhạc:
Khiêu vũ với con búp bê mặc vớ rách một lỗ ….
Tuy nhiên, họ kính trọng bác sĩ Fox, một phần vì anh ấy đọc nhiều sách.
Họ cũng nói rằng không một ai giống anh ta, có thể xé nát người khác nếu anh
muốn.
Không thể giải thích vì sao họ nghĩ có mối liên hệ giữa đọc sách và xé
nát từng mảnh.
Đám học sinh đến lớp học rất đa dạng. Khoảng từ mười lăm cho đến sáu
đứa. Chỉ học ban ngày, từ 9 giờ sáng đến trưa. Học sinh nào có nhiệt độ gia
tăng hoặc đang khám bệnh sẽ bị cách ly. Khi hiện diện, chúng im lặng, dễ dạy,
nhưng không hưởng ứng. Chúng nhận ra ngay, đây là một trường học giả vờ, nơi
chúng không bị bắt buộc phải học bất kỳ một thứ gì, cũng như không bị bắt làm
bài tập tốn thời giờ và hại trí nhớ. Sự tự do này không làm chúng trở nên kiêu
căng, hoặc lười biếng theo bất kỳ cách nào để phê phán, chúng chỉ ngoan ngoãn
và mơ mộng. Hát nhẹ nhàng vòng quanh, chơi trò X’s và O’s. Có một bóng đen của
thất bại che trên lớp học ngẫu nhiên.
Quyết định đi gặp bác sĩ Fox về những lời anh đã nói. Hoặc những gì anh
viết, như sự chán nản trở thành kẻ thù. Trong góc phòng nhỏ của người cai
trường, tôi nhìn thấy một quả địa cầu. Yêu cầu mang nó đến lớp. Tôi bắt đầu dạy
về địa lý một cách đơn giản. Các đại dương, các địa lục, khí hậu. Tại sao không
phải là gió và dòng nước chảy? Các quốc gia và các thành phố? Chí tuyến bắc và
chí tuyến nam? Tại sao không phải là những con sông ở Nam Mỹ?
Một số trẻ em đã học những điều này trước đây, nhưng rồi gần như đã quên
hẳn. Thế giới bên ngoài hồ ao và rừng đã biến mất. Những bài học gây lên niềm
vui, như thể chúng tìm lại được những bạn cũ với những gì đã từng quen biết. Dĩ
nhiên, không thể đổ mọi thứ lên đầu chúng cùng một lúc. Ngoài ra, còn phải tạo
dễ dàng cho những trẻ chưa biết gì vì họ bị bệnh quá sớm.
Nhưng cũng được thôi. Có thể làm trò chơi. Chia đám trẻ ra thành đội
ngũ, đòi hỏi chúng phải lớn tiếng câu trả lời khi tôi dùng cây chỉ hướng dẫn,
di chuyển từ nơi này sang nơi kia. Phải cẩn thận không thể để lòng hào hứng kéo
dài quá lâu. Nhưng có một hôm, sau ca phẫu thuật buổi sáng, bác sĩ bước vào,
bắt gặp tại chỗ. Tôi không thể dừng hẳn mọi thứ, nhưng cố gắng làm giảm bớt sự
tranh đua. Anh ta ngồi xuống, trông có vẻ mệt mỏi. Không tỏ thái độ chống đối.
Sau một vài phút, anh tham gia vào trò chơi, phát ngôn nhiều câu trả lời lố
bịch. Những tên gọi không chỉ lầm lẫn mà còn tưởng tượng. Rồi từ từ anh nhỏ
tiếng dần. Thấp, thấp, khởi đầu nghe lầm bầm, rồi thì thầm, rồi tắt hẳn. Bằng
cách này, cách phi lý, anh đã kiểm soát được căn phòng. Cả lớp bắt chước. Chăm
chú nhìn miệng anh.
Đột nhiên, anh phát ra một tiếng gầm gừ nhỏ, khiến tất cả bật cười. “Tại
sao mọi người nhìn tôi? Cô Hyde dạy các em như vậy phải không? Nhìn chăm chăm
vào người ta, không làm họ phiền lòng sao? Hầu hết cười vui vẻ, nhưng một số
vẫn không thể ngừng theo dõi anh. Chúng khao khát thêm nhiều trò hề nữa.
“Cứ tiếp tục. Hãy đi ra ngoài và cư xử không đúng mực ở một nơi khác.”
Anh xin lỗi đã làm lớp học bị gián đoạn. Tôi giải thích, lý do cố gắng biến nơi
này giống như các lớp học thật sự. Phát biểu một cách nghiêm túc, “Mặc dù tôi
đồng ý với anh về áp lực căng thẳng, cũng đồng ý với những gì anh viết trong
bài hướng dẫn. Tôi chỉ nghĩ…”
“Bài hướng dẫn nào? Ồ, đó chỉ là những mẩu vụn thoáng qua đầu tôi. Không
phải ý định đặt thành nền tảng.”
“Ý tôi là miễn các em đừng bệnh quá nặng …”
“Tôi nghĩ là cô đúng. Chuyện đó không phải là quan trọng.”
“Nếu không, các em có vẻ lơ đảng.”
“Không cần phải sáng tác một bài hát hoặc một điệu nhảy.” Vừa nói anh
vừa bỏ đi. Rồi quay lại, đưa ra một lời xin lỗi lấp lửng. “Chúng ta có thể bàn
chuyện này vào một lúc khác.”
Lúc đó, tôi nghĩ, Rõ ràng anh ấy nghĩ tôi là kẻ ngốc gây nhiều phiền
phức. Vào một bữa ăn trưa, tôi phát hiện từ các phụ tá, buổi sáng hôm đó, đã có
một người qua đời trong ca giải phẫu. Vì vậy, lý do tức giận của tôi trở thành
không chính đáng và cảm thấy mình là kẻ khờ khạo.
Chiều nào cũng rảnh rỗi. Các học sinh ngủ trưa, đôi khi tôi cũng cảm
thấy buồn ngủ. Phòng tôi lạnh, khăn trải giường mỏng, chắc chắn người bệnh lao
cần thứ gì ấm áp hơn. Dĩ nhiên, tôi không bị bệnh. Có thể họ không quan tâm, bỏ
qua các phần đồ dùng căn bản đối với những người không bệnh như tôi.
Tôi lơ mơ nhưng không ngủ được. phía trên có tiếng bánh xe của giường
nằm, đang đẩy ra hiên nhà phơi nắng trong buổi chiều lạnh cóng. Tòa nhà, cây
cối, hồ nước, đối với tôi, không bao giờ giống ngày đầu tiên đó, khi tôi bị
cuốn hút bởi sự bí ẩn và quyền lực của chúng. Hôm đó, tôi tin rằng tôi đã vô
hình. Bây giờ, điều này, dường như, không bao giờ đúng.
Đó là cô giáo. Cô ta định làm gì?
Ngắm hồ nước
Chi vậy?
Không có gì làm.
Một số người thật may
mắn.
Thỉnh thoảng, tôi bỏ ăn trưa,
dù đó là một phần tiền lương của tôi, để đi Amundsen, nơi tôi dừng ăn ở quán cà
phê, Postum. Món ngon nhất là bánh mì với cá hồi đóng hộp, nếu họ còn. Gỏi gà
phải cẩn thận xem chừng còn lông dính trên da. Tôi cảm thấy rất thoải mái ở đây
vì không ai biết mình. Về điều này tôi đã lầm. Quán cà phê không có phòng vệ
sinh riêng cho nữ phái, phải đi qua khách sạn cạnh bên, rồi rẻ sang lối vào
quán bia, lúc nào cũng tối tăm, ồn ào, bốc mùi cồn của bia và whiskey, từng đợt
khói thuốc và khói xì-gà xông nghẹt thở. Nhưng những phu đốn gỗ, phu cưa cây,
không bao giờ quát tháo người khác như lính và đám không quân ở Toroto. Họ chìm
sâu vào thế giới đàn ông, tâm sự những câu chuyện riêng tư. Họ đến đây không
phải kiếm đàn bà. Trong thực tế, họ háo hức rời khỏi công ty ngay bây giờ hoặc
mãi mãi.
Bác sĩ Fox có văn phòng ở
đường Main. Chỉ là tòa lầu nhỏ một tầng, anh phải ở một nơi khác. Tôi đã nghe
tin từ các phụ tá là không có bà Fox. Trên con đường rẻ duy nhất, tìm thấy ngôi
nhà có thể thuộc về anh, nhà tráng bằng stucco với cửa sổ có mái che ở trên cửa
chính, sách xếp chồng lên nhau trên bệ cửa sổ. Tuy nhìn ảm đạm nhưng có thứ tự,
gợi ý một sự thoải mái tối thiểu nhưng chính xác mà một người cô độc có quy củ
ở đó.
Trường học ở phố nằm cuối
đường dân cư ở. Một buổi chiều, tôi nhìn thấy Mary trong sân, đang chơi quăng
banh tuyết. Dường như đám con gái chống lại đám con trai. Khi nhìn thấy tôi, cô
hét lớn, “Này cô giáo,” rồi quăng đại hai quả tuyết trên hai tay. Sau đó, cô
băng qua đường, quay mặt lại nói, “Hẹn gặp ngày mai,” ít hay nhiều như lời cảnh
cáo, không ai được theo dõi cô.
“Cô đang trên đường về? Em
cũng vậy. Thường thường đi ké xe của Reddy, nhưng hôm nay ông ấy sẽ về
muộn. Cô định đi bằng thứ gì? Xe lửa?
Tôi trả lời, đúng như vậy. “Ô, em có thể chỉ cô đi đường tắt, tiết kiệm tiền.
Con đường nhiều bụi cây.” Cô dẫn tôi lên con đường hẹp nhưng có thể băng qua
thị trấn, xuyên qua rừng, qua luôn xưởng cưa. Cô nói, “Reddy đi con đường này.”
Sau xưởng cưa, phía bên dưới,
một số vết cắt xấu xí trong rừng. Vài cái lán hình như có người ở, vì thấy củi
chẻ, dây phơi áo quần và khói bốc lên nghi ngút. Từ trong lán, một con chó lớn
lai sói chạy ra gầm gừ và sủa lớn tiếng. “Cô cứ bình tĩnh,” Mary la lên. Rồi
nhanh nhẹn vò, ném một quả tuyết, ngay giữa tam tinh con chó. Nó quay cuồng. Cô
đã chuẩn bị xong một quả tuyết khác. Người đàn bà mặc khăn nấu bếp bước ra, hét
lớn, “Cô muốn giết nó hả.”
“Tốt, diệt thêm một thứ rác
rưởi.”
“Tôi sẽ gọi chồng tôi đối phó
với cô.”
“Được mà. Chồng bà làm được
cứt gì.”
Con chó chạy theo xa xa, một
chút dọa nạt giả vờ.
“Cô đừng sợ, em sẽ đánh đuổi
bất kỳ con chó nào. Em cá rằng có thể đối phó một con gấu nếu chúng ta gặp nó.”
“Chẳng phải gấu thường ngủ
suốt mùa đông hay sao?
Tuy khá sợ con chó nhưng tôi
bị ảnh hưởng bởi thái độ bất cần đời của Mary.
“Đúng, nhưng cô không bao giờ
ngờ. Một con gấu thức dậy sớm, tìm đến nhà đậu xe, lục thức ăn trong thùng rác
ở San. Mẹ em quay lại thấy nó đứng thù lù. Reddy lấy súng bắn nó. Reddy thường
dẫn em và Anabel đi xe trợt tuyết, đôi khi với các trẻ em khác, ông có thể huýt
còi làm cho gấu sợ bỏ đi. Rít lên âm thanh quá cao so với tai người nghe.”
“Thật không. Cái còi như thế
nào?”
“Không phải cái còi, em muốn
nói ông huýt bằng miệng.”
Tôi nghĩ đến hành động của anh
ấy trong lớp học.
“Em không biết, có lẽ ông chỉ
nói vậy cho Anabel khỏi sợ. Chị ấy không thể đi xe trợt tuyết. Ông phải kéo chị
trên xe trợt băng. Đôi khi, em rình nhảy vào ngồi ké. Ông ta nói, ‘Cái quái gì
đây? Sao nặng quá vậy.’ Rồi ông quay lại thật nhanh để tìm em, nhưng chưa bao
giờ thấy. Ông hỏi Anabel, ‘sao mà nặng quá vậy, cháu đã ăn sáng thứ gì?’ Chị
chẳng bao giờ kể thật. Chị là người bạn tốt nhất của em.”
“Còn các cô gái ở trường thì
sao?” Họ không phải bạn?”
“Em chỉ quanh quẩn với họ khi
không có ai khác. Họ chẳng liên quan gì. Anabel và em có ngày sinh nhật cùng
chung trong tháng Sáu. Sinh nhật mười một tuổi, Reddy dẫn hai đứa ra hồ bơi
thuyền. Ông dạy chúng em bơi. Ông phải luôn luôn đỡ Anabel, chị ấy thực sự
không thể học được. Có lần, ông bơi một mình ra xa, trong bờ chúng em đổ đầy
cát vào giày của ông. Năm sau, sinh nhật thứ mười hai, không được đi nơi nào
giống như vậy, chỉ đến nhà ông ăn bánh. Chị ấy không thể ăn một chút nào. Ông
đã chở chúng em đi và quăng những mảnh bánh ra ngoài cửa xe cho hải âu ăn. Bầy
chim giành nhau la hét chí chóe. Chúng em cười như điên. Ông phải dừng xe, ôm
Anabel để chị không thổ huyết.” Cô ta nói tiếp. “Sau đó, em không được phép gặp
mặt chị nữa. Mẹ em không muốn em ở gần những trẻ em bị bệnh lao. Nhưng Reddy đã
thuyết phục bà. Ông nói, ông sẽ ngăn cản em khi cần thiết. Vì vậy, ông đã ngăn
cấm, làm em nổi điên. Nhưng chị ấy không còn vui vẻ nữa, bệnh trở nên trầm
trọng. Em sẽ chỉ cô nấm mộ của chị, chưa có cái gì để làm dấu. Reddy và em định
sẽ làm cái gì đó khi ông có thời giờ. Nếu chúng ta đi thẳng trên đường này thay
vì rẻ qua lối khác, chúng ta sẽ đến nghĩa địa có mộ Anabel.”
Lúc này, chúng tôi đã xuống
đến vùng đất bằng, gần khu vực San. Cô nữ sinh nói, “Ô, xém nửa em quên mất,”
rồi móc ra một nắm vé.
“Cho ngày lễ Tình Nhân, chúng
em sẽ trình diễn một vũ kịch ở trường trung học, tên là “Pinafore”. Em đóng
tuồng trong đó. Có nhiều vé để bán. Cò lẽ cô là người mua đầu tiên.”
Tôi đoán đúng, căn nhà ở
Amundsen là nơi bác sĩ Fox cư ngụ. Anh đưa tôi đến đó ăn tối. Dường như, lời
mời đến đúng lúc vào một hôm anh tình cờ gặp tôi trong hội trường. Có lẽ, anh
có một hồi tưởng không thoải mái vì đã hứa, chúng tôi sẽ gặp nhau để bàn thảo
về ý kiến dạy học.
Buổi tối mà anh ta mời là buổi
tối tôi mua vé đi xem Pinafore. Khi kể với anh như vậy, anh đáp lại, “Tôi cũng
đã mua, nhưng không có nghĩa chúng ta cần xuất hiện ở đó.”
“Tôi có cảm giác như đã hứa
với cô ta.”
“Thì bây giờ, cô có thể không
hứa nữa. Tin tôi đi, vũ kịch rất là khủng khiếp.”
Làm theo lời anh, mặc dù không
gặp Mary để nói cho cô biết. Tôi đến đợi ở nơi đã được chỉ dẫn, dưới mái hiên
bên ngoài cửa trước của San. Mặc chiếc áo đầm đẹp nhất, màu bánh crêpe xanh lá
cây đậm, cúc áo nhỏ bằng ngọc trai, cổ áo đính ren thật. Mang đôi bốt cao da
lộn bên trong giày đi tuyết. Chờ quá giờ đã hẹn, lo lắng, ban đầu, e ngại
Matron ra khỏi văn phòng sẽ thấy tôi, rồi sau đó, lại sợ anh đã quên. Nhưng
rồi, anh ta đến, vừa cài nút áo vừa nói xin lỗi.
“Luôn luôn kẹt những chuyện
lặt vặt phải giải quyết,” Đưa tôi đi vòng quanh tòa lầu đến chiếc xe hơi. “Cô
không sao, phải không?” Tôi trả lời, không sao. Mặc dù đôi giày da lộn gây khó
khăn, anh không đưa tay cho tôi vịn. Chiếc xe cũ và tồi tàn, như hầu hết các xe
trong thời đó. Không có máy sưởi. Khi ông nói, sẽ đến nhà ông, tôi có cảm giác
nhẹ nhõm. Tôi không thể nghĩ ra chúng tôi sẽ phải làm gì với đám đông ở khách
sạn, cũng hy vọng không phải dính líu đến bánh mì ở quán cà phê.
Đến nhà, anh nói tôi đừng cởi
áo khoác cho đến khi hơi nóng sưởi ấm lên một chút. Liền sau đó, anh lập tức
bận rộn đốt củi trong bếp.
“Tôi là người giúp việc, đầu
bếp và phục vụ cho cô, một lát nữa sẽ thoải mái thôi, và bữa ăn sửa soạn không
lâu đâu. Không cần đề nghị giúp đỡ, tôi muốn làm một mình. Cô muốn chờ ở đâu?
Nếu muốn, cô có thể đọc sách trong phòng trước. Sẽ không quá khó chịu trong đó
khi mặc áo khoác. Công tắc đèn nằm ngay bên trong cửa. Cô không phiền nếu tôi
nghe tin tức? Tôi có thói quen này.”
Vào phòng trước, cảm giác như
thể ít nhiều gi đã phải tuân lệnh. Tôi để cửa bếp mở. Anh đến đóng lại và nói,
“Chỉ chờ một chút nhà bếp sẽ ấm lên.” Rồi quay lại với giọng nói gần như thiêng
liêng của đài CBC, đang phát tin tức chiến tranh.
Có rất nhiều sách để xem. không chỉ trên kệ, còn trên bàn, trên ghế, trên bệ cửa sổ, và chất đống trên sàn nhà. Sau khi xem qua vài cuốn, tôi kết luận, anh ta thích mua sách theo từng lố, có lẽ thuộc vào các câu lạc bộ chuyên môn bán sách. The Harvard Classics, The Histories of Will Durant. Tiểu thuyết và thơ có vẻ thiếu. Một số sách kinh điển cho trẻ em, đáng ngạc nhiên. Sách: American Civil War, South Africa War, Napoleinic Wars, Peloponnesian War, the Campaifns of Julius Caesar, Exploration of the Amazon and the Arxtic, Shackleton Caught On the Ice, John Franklin’s Doomed Expedition, Dooner Party, the Lost Tribes, Newton, Alchemy, the Secrete of the Hindu Kush. Những cuốn sách gợi ý người nào đó lo nghĩ muốn biết, sở hữu những đám kiến thức riêng biệt. Có lẽ, ai đó không có thị hiếu chắc chắn và chính xác. vậy thì, khi anh hỏi tôi về cuốn sách Nga nào, thì anh ta cũng không có nền tảng vững vàng như tôi nghĩ.
Khi anh gọi, “sẵn sàng rồi”, tôi mở cửa với sự chuẩn bị đầy hoài nghi.
Tôi nói,
“Anh đồng ý với ai, Naphta hoặc Settermbrini?”
“Xin lỗi, cô hỏi gì?”
“Trong The Magic Mountain, anh thấy Naphta hay nhất hoặc Settembrini?”
“Thành thật mà nói, tôi luôn luôn nghĩ họ là một cặp túi gió. Còn cô?”
“Setembrini có nhân tính hơn, còn Naphata thú vị hơn."
"Họ dạy như vậy ở trường học?”
“Tôi chưa bao giờ đọc sách này lúc còn đi học.” Giọng lạnh lùng.
Anh liếc nhìn tôi rất nhanh, chiếc lông mày ấy nhướng lên.
“Xin lỗi. Nếu cô thích cuốn sách nào trong đó, cứ tự nhiên xem. Lúc nào
rảnh rỗi cô có thể đến đây đọc sách. Tôi có thể đặt một lò sưởi điện, tôi nghĩ,
chắc cô không quen dùng lò đốt gỗ. Chúng ta sẽ bàn về điều này, được không? Tôi
sẽ làm cho cô một chìa khóa riêng.”
“Cảm ơn.”
Thịt heo xay, khoai tây nghiền, đậu đóng hộp. Món tráng miệng là chiếc
bánh táo mua ở tiệm, nếu được hâm nóng sẽ ngon hơn. Anh hỏi thăm về đời sống ở
Toroto, các khóa trong đại học, gia đình tôi. Anh cho rằng tôi được dạy dỗ trên
con đường thẳng và hẹp.
“Ông nội tôi là một giáo sĩ thuộc phái tự do theo kiểu Paul Tillich.”
“Hay lắm. Cô có nghĩ là tôi khiếm nhã không?”
“Tùy. Nếu anh đang phỏng vấn tôi với tư cách chủ nhân, thì không.”
“Như vậy, tôi có thể tiếp tục. Cô có bạn
trai chưa?”
“Vâng.”
“Chắc trong quân đội.”
“Hải quân.” Một lựa chọn đúng đắn vì không biết anh ấy ở đâu và không
nhận được thư từ thường xuyên.
Bác sĩ Fox đứng lên và pha trà.
“Anh ấy ở trên tàu nào vậy?”
“Tàu hộ tống.” Một chọn lựa đúng khác. Sau một thời gian, tôi có thể cho
anh trúng ngư lôi, như chuyện thường xảy ra cho tàu hộ tống.
“Thật can đảm. Cô dùng sữa hoặc đường trong trà?”
“Cảm ơn. Chỉ trà thôi.”
“Tốt quá. Tôi đã hết sữa hết đường. Cô biết không, khi nói dối mặt sẽ đỏ
lên.”
Nếu mặt tôi chưa đỏ, thì lúc đó sẽ đỏ. Màu đỏ từ chân tôi đỏ lên. Mồ hôi
chảy xuống cánh tay. Hy vọng chiếc áo không bị hư.
“Tôi luôn luôn cảm thấy nóng khi uống trà.”
“Ô, tôi biết rồi.”
Câu chuyện có thể tồi tệ hơn. Tôi quyết định dằn mặt anh ta. Tôi chuyển
chủ đề về anh, hỏi anh cách giải phẫu bệnh nhân. Có phải cắt bỏ lá phổi như tôi
đã nghe? Anh có thể trả lời điều đó với cách chọc ghẹo hơn, chủ nhân hơn, có
thể đây là ý niệm tán tỉnh của anh. Tôi nghĩ, nếu anh làm như vậy, tôi sẽ mặc áo
khoác và bước về trong đêm lạnh. Có lẽ anh đoán biết nên bắt đầu kể về phẫu
thuật lồng ngực. Dĩ nhiên, chuyện cắt lá phổi khá phổ biến gần đây.
“Nhưng anh không mất một số bệnh nhân hay sao?”
Chắc anh ta đang nghĩ, đã đến lúc phải trở lại nói đùa.
“Nhưng dĩ nhiên. Họ chạy trốn, núp sau bụi rậm, chúng tôi không biết họ
đi đâu. Nhảy xuống hồ. Hoặc ý của cô là họ có chết hay không? Có những trường
hợp, giải phẫu không có kết quả tốt, vâng, có chứ.”
Nhưng có những điều tốt hơn đang xảy đến. Việc phẫu thuật mà anh thực
hiện sẽ trở nên lỗi thời như thuật rút máu. Một loại thuốc mới được tung ra thị
trường. Streptomycin. Đã được sử dụng để thử nghiệm. Có một số vấn đề, tự nhiên
thôi, luôn có vấn đề, sẽ có vấn đề. Độc tính trong hệ thần kinh. Nhưng sẽ tìm
ra cách chữa trị nó.
“Khiến những người cưa xương như tôi thất nghiệp.”
Rửa chén đĩa, rồi lau khô. Anh mang khăn lau chung quanh eo tôi để bảo
vệ áo đầm. Khi hai đầu được buộc lại thật chặt, anh đặt tay lên lưng tôi. Những
ngón tay xòe ra, ép mạnh vào, anh gần như đã chiếm lấy cơ thể tôi một cách
chuyên nghiệp. Đêm đó, khi tôi đi ngủ vẫn còn cảm giác sức ép này. Tôi cảm được
sức ép phát triển từ ngón tay út đến ngón tay cái. Thật thích thú. Thực sự, nó
quan trọng hơn nụ hôn tiếp theo trên trán tôi, lúc trước khi tôi bước ra khỏi
xe anh ta. Một nụ hôn khô, ngắn ngủi và trang trọng, đặt lên tôi bằng uy quyền
vội vã.
Chìa khóa nhà anh xuất hiện trên sán nhà tôi, đẩy vào dưới cửa khi tôi
vắng mặt. Nhưng sau cùng, không sử dụng được. Nếu ai khác đưa ra đề nghị này,
tôi đã chộp lấy cơ hội. Đặc biệt có luôn lò sưởi. Nhưng trường hợp này, quá khứ
và tương lai của anh hiện diện trong căn nhà sẽ lấy đi hết những thoải mái bình
thường và thay thế bằng niềm vui căng thẳng thần kinh hơn là cởi mở. Tôi ngờ
rằng khó đọc được chữ nào.
Tôi mong Mary đến trách móc tôi đã không đi xem Pinafore. Dự định sẽ trả
lời là tôi không được khỏe, bị cảm lạnh. Liền sau đó, nhớ lại, cảm lạnh là bệnh
quan trọng ở nơi đây, liên quan việc mang khẩu trang, dùng thuốc khử trùng và
bị cách ly. Tôi hiểu ngay, không còn hy vọng che giấu chuyện đi đến nhà bác sĩ
ăn tối. Đó là một bí mật không ai biết, kể cả ý tá. Họ không nói gì, hoặc vì họ
tử tế và kín đáo hoặc vì họ không quan tâm những chuyện như vậy. Nhưng các phụ
tá trêu chọc, “Đêm đó ăn tối có vui không?” Giọng điệu thân mật, dường như họ
chấp nhận. Mặc kệ chuyện gì khác, tối thiểu, tôi cũng trở thành một phụ nữ có
đàn ông.
Cả tuần qua, Mary không xuất hiện. “Thứ bảy tuần tới” là lời hẹn cuối
cùng trước khi anh hôn trán tôi. Vì vậy, lại đợi nhau dưới hiên nhà cửa trước.
Chúng tôi đi xe đến nhà, tôi vào phòng sách trong khi anh lo đốt lửa bếp. Trong
phòng, nhìn thấy một lò sưởi điện.
Anh nói, “Không chấp nhận lời đề nghị (đến nhà đọc sách) của tôi, Cô
không nghĩ tôi thành tâm sao? Tôi luôn luôn nghiêm túc với những gì đã nói.”
Tôi nói, tôi không muốn vào phố vì sợ gặp Mary.
“Vì không tham dự vở kịch của cô ấy.”
Anh nói, “Nếu cô muốn sắp xếp đời mình để theo Mary.”
Thực đơn gần giống như lần trước. Thịt lợn, khoai tây nghiền, bắp xay
thay vì đậu Hà Lan. Lần này, ông để tôi phụ bếp, thậm chí, còn yêu cầu tôi dọn
bàn.
"Cô nên tìm hiểu mọi đồ vật sắp xếp ở đây. Tất cả đều theo lề lối
khá trật tự.”
Nghĩa là, tôi có thể xem anh ta làm việc ở bếp. Sự tập trung dễ dàng,
những động tác không dư thừa, bật lên trong lòng tôi những tia lửa và cảm giác
ớn lạnh.
Chúng tôi vừa bắt đầu ăn, có tiếng gõ cửa. Anh đứng lên, rút cái chốt
cài, Mary tuôn vào. Mang theo chiếc hộp giấy dày, đặt lên bàn, rồi cởi áo khoác,
lộ ra bộ y phục cải trang màu đỏ và vàng. Cô ta la lên: “Chúc mừng ngày lễ tình
nhân. Các người không đến xem em trình diễn, em mang trình diễn đến đây.”
Cô ta đứng lên một chân để đá văng chiếc ủng , rồi đá tiếp chân kia. Đẩy
hai người lùi ra, cô bắt đầu vừa nhảy chung quanh bàn, vừa hát với giọng trẻ
trung đầy sinh lực nhưng nghe não nùng:
Gọi tên tôi là bé Hoa Vàng, (2)
Hoa vàng nhỏ thân ái
Mặc dù tôi không bao giờ kể tại sao.
Nhưng vẫn gọi tôi là bé Hoa Vàng,
Ôi, bé hoa vàng tội nghiệp,
bé hoa vàng ngọt ngào -
Anh đứng dậy ngay cả trước khi Mary hát. Đến gần nơi lò nướng, bận bịu
với cái chảo chiên đang đựng miếng thịt heo.
Tôi vỗ tay tán thưởng. “Bộ trang phục thật quá đẹp.”
Thực sự là như vậy. Váy đỏ, váy lót màu vàng tươi, tạp dề trắng phất
phơ, áo thêu màu.
“Mẹ em may.”
“Bà thêu luôn?”
“Vâng. Đêm hôm trước, bà thức suốt bốn giờ để làm cho xong.”
Tiếp theo là sự quay cuồng và giậm chân tại chỗ để trình diễn thêm.
Những chiếc dĩa sắp kêu leng keng trên kệ. Tôi vỗ tay nhiều hơn. Cả hai chúng
tôi cùng muốn một điều. Muốn bác sĩ Fox quay lại, ngưng phớt lờ chúng tôi. Muốn
anh ta nói đôi lời lịch sự, dù miễn cưỡng.
“Hãy tìm vài thứ khác cho lễ Tình Nhân.” Vừa nói, Mary vừa xé hộp giấy
dày ra, những chiếc bánh Tình Nhân cắt hình trái tim, bọc lớp đường màu đỏ.
Tôi nói, “Thật là tuyệt.” Mary lại tiếp tục nhảy. Cô nói,
Em là đội trưởng của nhóm Pinafore.
Một đội trưởng giỏi
Em rất giỏi, ai cũng thấy,
Em chỉ huy một đội nhảy rất hay.
Sau cùng, bác sĩ Fox quay lại, Mary chào.
Anh nói, “Được rồi. Thế là đủ rồi.”
Mary phớt tỉnh. Đưa tay lên ra hiệu ba lần cổ võ rồi cổ võ thêm một lần
nữa cho đội trưởng gan dạ của Pinafore.
“Tôi nói, đã đủ rồi.”
“Mừng đội trưởng Pinafore.”
“Mary. Chúng tôi đang ăn tối. Em không được mời, hiểu không? Không được
mời.”
Sau cùng, cô ta im lặng. Nhưng chỉ một lát.
“Ông không tử tế gì. Thúi quắc.”
“Và tốt hơn là em không cần bất kỳ một chiếc bánh ngọt nào. Em đang trở
nên bụ bẫm như một con heo con.”
Mặt Mary sưng lên như sắp khóc, nhưng thay vì vậy, cô nói, “Xem thử là
ai nói, mắt ông bị lé kìa.”
“Đủ rồi.”
“Tại ông chớ ai.”
Bác sĩ Fox lấy đôi ủng đặt xuống trước mặt Mary.
“Mang vào đi.”
Cô ta vừa mang vừa khóc, nước mũi chảy xuống. Thở hổn hển. Ông lượm
chiếc áo khoác và không giúp khi cô mặc vào, lúng túng tìm những cúc áo.
“Đúng rồi. Em đến đây bằng cách nào?”
Mary từ chối không trả lời.
“Đi bộ, phải không? Tôi có thể chở em về. Em khỏi phải chui vào trong
tuyết lạnh và tủi thân chết cóng.”
Tôi không nói lời nào. Mary không nhìn tôi . Chuyện xảy ra quá đổi bàng
hoàng, không cần chào tạm biệt. Khi nghe tiếng mở máy xe, tôi bắt đầu dọn bàn. Còn
món tráng miệng, lại là chiếc bánh táo. Có lẽ, anh không biết bánh gì khác,
hoặc giả tiệm bánh chỉ bán thứ này. Lượm một chiếc bánh hình trái tim lên, bỏ
vào miệng. Lớp đường bọc ngọt kinh khủng. Không có mùi vị trái mọng hoặc trái
đào, toàn là đường và phẩm đỏ. Tôi ăn chiếc thứ hai.
Tôi biết, ít nhất phải nói tạm biệt và cảm ơn cho những chiếc bánh. Thôi
thì không quan trọng gì. Tôi tự nhủ, không nên quá bận tâm. Buổi trình diễn
không phải cho tôi. Hoặc chỉ một phần nhỏ cho tôi.
Anh ta quá tàn nhẫn, làm tôi sửng sốt. Tàn nhẫn đối với một người đang
cần anh. Nhưng, theo cách nào đó, anh làm vì tôi, để thời giờ chúng tôi bên
nhau không bị đánh mất. Ý nghĩ này làm tôi hãnh diện, rồi xấu hổ vì tự tâng bốc
mình. Không biết sẽ phải nói gì khi anh ta trở về.
Anh không muốn tôi nói gì cả. Đưa tôi lên giường. Đây có phải là việc từ
lâu trong ván bài, hoặc là chuyện bất ngờ đối với cả hai chúng tôi? Tối thiểu,
chuyện trinh tiết của tôi không có vẻ gì ngạc nhiên, ông cung cấp khăn tắm, bao
cao su, và kiên nhẫn, hết sức từ tốn. Niềm đam mê của tôi làm kinh ngạc cả hai
đứa.
Anh ta nói, “Anh có ý định cưới em.”
Trước khi chở tôi về, anh quăng hết những bánh Tình Nhân, những trái tim
đỏ, ra ngoài sân tuyết cho đám chim mùa đông.
Mọi sự đã quyết định. Việc đính hôn được thỏa thuận riêng tư, mặc dù anh
ấy có chút thận trọng với từ ngữ này. Nếu có vài ngày nghỉ liên tục, chúng tôi
sẽ làm đám cưới. Một đám cưới hết sức đơn giản, anh ta nói như vậy. Tôi không
viết thư báo tin cho ông bà nội. Tôi hiểu được, ý tưởng một đám cưới với sự
hiện diện của những người khác mà anh không quan tâm, và họ gây cho chúng tôi
phải cười thầm, cười khéo, những chuyện này vượt qua sức chịu đựng của anh ta.
Cũng không có nhẫn kim cương. Tôi nói, tôi chưa bao giờ muốn. Thật như vậy, vì
tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Anh trả lời, điều này thật là tốt. Anh biết tôi
không phải là loại con gái thông thường, ngu ngốc.
Tốt hơn, không nên tiếp tục ăn tối với nhau, anh ta nói, không phải vì
sợ lời bàn tán mà vì khó có đủ thịt cho hai người trong một khẩu phần. Tôi
không có thẻ riêng, đã giao cho người phụ trách bếp, mẹ của Mary, ngay từ đầu,
lúc ăn ở San.
Tốt hơn là đừng gây ra chú ý.
Cố nhiên, mọi người đều có một ít nghi ngờ. Các y tá lớn tuổi tỏ vẻ thân
mật, ngay cả Matron cũng nở nụ cười phiền muộn với tôi. Thận trọng và khiêm
tốn, hầu như, không có ý nghĩa gì, tôi cuộn mình lại với sự tĩnh lặng êm ái,
mắt nhìn xuống. Không hoàn toàn biết rằng những phụ nữ lớn tuổi kia đang theo
dõi tình thân thiết này diễn tiến ra sao và họ sẵn sàng thẳng thắn trở mặt nếu bác sĩ quyết định bỏ
rơi tôi.
Chính những y tá phụ mới hết lòng. Họ trêu chọc và giấu chuông đám cưới
trong lá trà tôi uống.
Tháng Ba thật khắc nghiệt và bận rộn sau cánh cửa bệnh viện. Các phụ tá
cho biết, luôn luôn là tháng tồi tệ nhất. Vì một số lý do, sau khi bị mùa lạnh
tấn công, một bệnh nhân trở bệnh rồi chết. Nếu một đứa trẻ không đến lớp, không
biết vì nhập bệnh nặng hoặc chỉ nghi ngờ bị cảm lạnh cần nằm giường nghỉ ngơi.
Tuy nhiên, vẫn tìm ra thời giờ, bác sĩ Fox có thể sắp xếp một số khoảng trống.
Ông luồn tờ giấy nhắn vào dưới cửa phòng, dặn dò tôi sẵn sàng vào tuần lễ đầu
tiên tháng Tư. Trừ phi có một chuyện gì trọng đại xảy ra, nếu không, ông sẽ
xoay sở để trống được vài ngày, chúng
tôi sẽ đến Huntville để làm lễ kết hôn.
Tôi chuẩn bị áo đầm màu bánh crêpe xanh đậm, đã giặt khô, cẩn thận cuộn
lại trong túi du hành ban đêm. Có lẽ, sẽ phải thay y phục trong nhà vệ sinh của
người nữ. Tôi đang tìm kiếm những cây hoa dã quỳ ở đầu đường, đề hái về làm bó
hoa ngày cưới. Anh ta đồng ý. Nhưng còn quá sớm, kể cả loại vạn thọ mọc ngoài
đầm lầy. Không thấy hoa gì cả, ngoài trừ những cây vân sam đen gầy và những hòn
đảo với cây bách xù trải rộng và bãi lầy. Ở những nơi đường cụt, những tảng đá
chồng chất hỗn loạn đã nhìn quen thuộc, cọc sắt dính máu và các bệ nghiêng bằng
cẩm thạch.
Đài phát thanh xe hơi đang phát nhạc chiến thắng khải hoàn, vì quân đồng
minh càng ngày càng tiến gần đến thành phố Berlin. Anh ta nói, họ đang trì hoãn
để chờ quân Nga đến trước, sẽ là chuyện đáng tiếc.
Bây giờ, chúng tôi đã xa Amudsen, tôi cảm thấy có thể gọi anh là
Alister. Đây là chuyến đi dài nhất mà chúng tôi đi với nhau. Tôi bị kích thích
bởi sự không nhận thức của nam tính về tôi, việc này có thể nhanh chóng đổi lại
ngược chiều, và khả năng lái xe bình thường của anh. Tôi thấy thật thú vị khi
anh ta là bác sĩ phẫu thuật, mặc dù, tôi sẽ không bao giờ thừa nhận điều này.
Ngay lúc đây, tôi tin rằng sẽ nằm xuống vì anh trong bất kỳ vũng sình lầy
nào, lỗ bẩn thỉu nào, hoặc xương sống
tôi cảm thấy đè lên bất kỳ tảng đá nào bên đường, nếu anh đòi hỏi một cuộc va
chạm đứng thẳng. Tôi phải giữ những cảm xúc như vậy cho riêng mình.
Hướng tâm trí mình về tương lai. Một khi đến Hunterville, mong rằng
chúng tôi sẽ tìm thấy một mục sư để được đứng cạnh nhau trong một phòng khách,
nơi không cần quí phái như những phòng khách mà trong đời tôi đã biết.
Nhưng khi đến nơi, mới khám phá ra, có nhiều cách khác để kết hôn. Chàng
rể của tôi còn có ác cảm khác mà tôi chưa hiểu thấu. Anh không muốn liên quan
gì đến mục sư. Tại tòa thị chính Huntsville, chúng tôi điền vào mẫu đơn “thề
đang độc thân,” rồi lấy cái hẹn sẽ kết hôn bởi một người đại diện công lý.
Đến giờ ăn trưa, Alister dừng chân trước một quán ăn, có vẻ như anh em
họ của quán cà phê ở Amundsen.
“Ở đây được rồi.”
Nhưng, khi nhìn mặt tôi, anh đổi ý.
“Không được? OK.”
Sau cùng chúng tôi ăn trưa trong căn phòng trước lạnh lẽo của ngôi nhà sang trọng quảng cáo
cơm gà cho bữa ăn tối. Đĩa ăn lạnh như đóng băng, không có thực khách nào khác,
không có nhạc, chỉ nghe tiếng dao nĩa lách cách khi chúng tôi cố gắng cắt rời
những phần gà. Chắc hẳn anh ấy nghĩ chúng tôi sẽ ăn khá hơn ở nhà hàng đầu tiên
mà anh đề nghị.
Tuy nhiên, tôi tìm được can đảm hỏi đến phòng vệ sinh phụ nữ. Trong đó,
còn lạnh ghê hơn cả phòng trước. Tôi giũ áo đầm xanh rồi mặc vào, tôi môi son,
chải lại tóc. Khi bước ra, Alister đứng dậy chào đón bằng nụ cười, siết chặt
tay tôi và nói, tôi trông rất đẹp.
Chúng tôi đi trở lại xe, nắm tay nhau, không được tự nhiên. Anh ấy mở
cửa cho tôi, rồi đi vòng qua, bước vào xe. Sau khi ngồi, mở máy, rồi lại tắt.
Xe đang đậu trước một cửa hàng bán vật dụng. Xẻng xúc tuyết đang giảm nửa giá.
Một tấm bảng nơi cửa sổ cho biết, bên trong có mài lưỡi của giày trợt tuyết.
Bên kia đường, một ngôi nhà gỗ sơn dầu màu vàng. Bậc thang phía trước hư
mục, trên đó hai tấm ván đóng đinh hình chữ X. Chiếc xe tải đậu phía trước xe
Alister là xe kiểu thời chiến tranh, với bậc chân leo lên và các mảnh chắn bùn
đã rỉ sét. Một đàn ông mặc quần yếm bước ra từ hàng bán vật dụng và leo lên xe.
Sau một hồi tiếng máy nổ than thở, tiếng lạch cạnh tiếp theo rồi chiếc xe lái
đi. Bấy giờ, chiếc xe tải giao hàng có bảng tên cửa hiệu đang cố gắng đậu vào
khoảng trống đó. Không có đủ chỗ. Người tài xế xuống xe và đến đập vào cửa sổ
xe Alister, làm anh ngạc nhiên, nếu tài xế không nói chuyện một cách nghiêm
chỉnh, thì sẽ có vấn đề. Alister quay cửa kính xuống. Tài xế hỏi nếu chúng tôi
đậu ở đây vì muốn mua vật dụng của cửa hàng, nếu không, xin vui lòng dời xe
sang chỗ khác?
Alister, người đàn ông ngồi cạnh tôi, sắp sửa cưới tôi, nhưng bây giờ
không muốn tiếp tục kết hôn nữa, anh nói, “Chúng tôi sắp đi.” Anh ta nói “chúng
tôi”. Trong một khoảnh khắc, tôi bám vào cụm từ đó. Nghĩ rằng, đây là lần cuối
cùng. Lần cuối, tôi được bao gồm trong “chúng tôi” của anh ấy.
Không phải “chúng tôi” mới là điều quan trọng. Không phải là những gì
làm sáng tỏ sự thật rõ ràng. Đó là giọng điệu nam tính của anh nói với người
tài xế, sự bình tĩnh và lời xin lỗi hợp lý. Bây giờ, tôi gần như ước ao được
quay trở lại những gì anh đã nói trước đây, khi chưa để ý đến xe tải đang cố
đậu vào khoảng trống hẹp. Những gì anh nói lúc đó thật khủng khiếp nhưng tối
thiểu, cái bám chặt vào tay lái. Cái nắm chặt, ý nghĩ trừu tượng, và giọng nói
mang theo niềm đau đớn. bất kể anh đang nói điều gì, đều phát ra từ nơi sâu
thẳm mà anh đã nói khi ở trên giường với tôi. Nhưng bây giờ không phải như vậy,
sau khi anh đã nói chuyện với người đàn ông khác.
Anh quay kính cửa xe lên. Chú ý hết sức lùi xe ra khỏi chỗ đậu chật hẹp
và lái thế nào cho khỏi cạ vào xe tải, như thể không còn gì để nói, để xoay sở.
“Anh không thể làm được.”
Anh ta không thể vượt qua khó khăn.
Anh không thể giải thích.
Chỉ cảm thấy là một lầm lỗi.
Với tôi, nghĩa là, tôi không bao giờ có thể nhìn vào chữ “S” cong như
những chữ trên tấm bảng mài lưỡi giày trợt tuyết, hoặc những tấm gỗ thô đóng
hình chữ X, trên các bậc thang của căn nhà gỗ màu vàng, mà không nghe lời nói
nầy:
“Anh đưa em đến nhà ga ngay bây giờ. Sẽ mua vé đi Toronto. Anh biết khá chắc có chuyến tàu đi
Toronto vào cuối chiều. Anh sẽ nghĩ ra một câu chuyện hợp lý, sẽ nhờ ai đó thu
dọn đồ đạc của em. Anh cần địa chỉ nhà em ở Toronto. Anh sẽ gửi đi. Ô, anh sẽ
viết thư giới thiệu cho em. Đã hoàn tất công việc rất tốt. Em không cần phải
làm cho đủ thời gian hạn định. Anh chưa cho em biết, đám trẻ sẽ được di chuyển
sang một bệnh viện điều dưỡng khác. Quá nhiều những thay đổi lớn đang xảy ra.”
Một giọng điệu mới của anh, gần như tự mãn. Giọng điệu được giải thoát.
Anh đang cố gắng đè nén, không để sự nhẹ nhõm thoát ra cho đến sau khi tôi đi.
Nhìn đường phố, giống như đang bị xe đưa đến nơi hành quyết. Vẫn chưa. Vẫn còn
một chút thời gian. Tôi vẫn chưa nghe anh ấy nói lần cuối cùng. Vẫn chưa nghe.
Anh không cần hỏi thăm đường đến nhà ga. Tôi tự hỏi, bật ra tiếng, liệu
anh có đưa các cô gái khác lên tàu trước đây?
Anh nói, “Đừng như vậy.”
Mỗi khúc quanh giống như đang cắt bỏ những gì còn lại trong đời tôi. Có
chuyến tàu đi Toronto lúc 5 giờ chiều. Anh đi vào nhà ga, tôi chờ trong xe. Anh
đi ra, tay cầm vé tàu, bước chân anh dường như nhẹ nhàng hơn. Chắc anh nhận ra
điều này, vì khi đến gần xe, anh trở nên điềm tĩnh hơn.
“Trong nhà ga sạch sẽ và ấm áp. Có phòng vệ sinh riêng cho phụ nữ.”
Anh mở cửa xe cho tôi bước ra.
“Em có muốn anh chờ để tiễn em đi? Có lẽ, chúng ta sẽ kiếm được một
miếng bánh ngon ở một nơi nào trong đó. Bữa ăn chiều
thật là dể sợ.”
Điều này khích động bản thân tôi. Bước ra và đi vào nhà ga trước. Anh
chỉ phòng vệ sinh cho phụ nữ. Nhướng một lông mày nhìn tôi, cố nói điều gì hài
hước lần cuối.
“Có thể một ngày nào đó, em sẽ thấy hôm nay là một ngày may mắn nhất
trong đời em?
Tôi chọn một băng ngồi có thể nhìn ra cửa trước nhà ga. Để có thể nhìn
thấy nếu anh quay trở lại. Có lẽ, anh sẽ nói với tôi, tất cả chuyện xảy ra là
trò đùa. Hoặc một phương pháp thử thách như trong các bộ phim truyền hình thời
Trung cổ. Cũng có thể con tim anh thay đổi. Lái xe vào xa lộ, nhìn ánh nắng
chiều xuân phai nhạt trên những tảng đá mà chúng tôi đã từng cùng nhau nhìn
ngắm trước kia. Bừng tỉnh khi nhận ra sự điên rồ của mình, anh quay xe lại và
chạy thật nhanh.
Còn ít nhất một giờ nữa trước khi tàu Toronto đến, nhưng dường như thời
gian không hiện diện. Bây giờ, thậm chí, quá nhiều tưởng tượng đang diễn ra
trong tâm trí tôi. Chân bước lên tàu như đeo dây xích. Áp mặt vào cửa kính,
nhìn dọc theo sân ga, khi tiếng còi báo hiệu khởi hành vang lên. Vẫn chưa muộn
để tôi nhảy xuống khỏi tàu. Tự do chạy băng qua nhà ga ra đường cái, nơi anh
đang đậu và chuẩn bị bước vào xe lái đi, nghĩ, nghĩ, vẫn chưa muộn, hãy cầu
nguyện, vẫn chưa muộn.
Tôi chạy đến để gặp anh. Vẫn chưa muộn.
Bây giờ, một sự náo động, tiếng la hét, kêu gào, không phải ít, mà là
tiếng ồn ào loạn xị của đám người lên sau đạp thình thịch giữa các hàng ghế.
Các nữ sinh trung học trong đồng phục thể thao đang cố gắng giải quyết những
rắc rối do họ gây ra. Người chỉ huy không hài lòng, vội vàng đuổi theo khi họ
tranh nhau chỗ ngồi. Một trong số bọn họ, có lẽ là người ồn ào nhất, là Mary.
Tôi quay mặt lại, không nhìn họ nữa.
Nhưng, cô ta kêu lớn tên tôi và muốn biết tôi đã làm gì bấy lâu. Tôi
nói, đi thăm viếng bạn. Cô nhào đến ngồi cạnh tôi, kể chuyện họ đánh bóng rổ
với đội banh Huntville. Như một cuộc bạo động. Họ thua.
“Chúng ta thua, phải không?” Cô kêu lớn trong niềm vui thích rõ rệt, các
cô khác rên tỉ hoặc cười khúc khích. Cô nói đến số điểm, thực sự đáng ngạc
nhiên.
“Cô ăn mặc đẹp quá.” Mary nói nhưng không quan tâm lắm, nghe những lời
tôi giải thích một cách lơ là. Hầu như không để ý khi tôi nói đến Toronto để
thăm ông bà nội. Cô không hỏi gì về Alister. Kể cả lời nói xấu. Cô đã quên. Chỉ
cần thu dọn hiện trường, cất vào tủ với những người khác trong dĩ vãng. Hoặc cô
là người biết ứng phó xem thường sự sỉ nhục.
Bây giờ, tôi biết ơn cô ta, mặc dù không thể cảm thấy điều này trong lúc
đó. Còn gì nữa, tôi có thể làm gì khi đến Amundsen? Rời tàu chạy đến nhà để hỏi
tại sao? tại sao? Suốt đời tôi sẽ xấu hổ. Như thường lệ, chỗ dừng lại không đủ
lâu để đội banh thu dọn đồ đạc, trong khi người chỉ huy cảnh cáo nếu họ không
xuống kịp, sẽ phải đi Toronto.
Trong nhiều năm, tôi nghĩ, mình có thể tình cờ gặp lại anh ấy. Tôi vẫn
sống, vẫn ở Toronto. Với tôi, hình như mọi người đều đến Toroto, ít ra, trong
một thời gian ngắn.
Hơn mười năm sau, cuối cùng đã xảy ra. Băng qua con phố đông đúc, không
thể giảm tốc độ. Đi ngược chiều. Đồng thời nhìn sửng sốt, một cú sốc trên gương
mặt thương tích bởi thời gian.
Anh kêu lên, “Em khỏe không?” Tôi trả lời, “Cũng tốt.” Rồi thêm vào, để
sự đo lường hiểu được tốt hơn. “Hạnh phúc."
Lúc đó, điều này chỉ đúng chung chung. Tôi đang tranh cãi với chồng về
việc phải trả một món nợ cho một trong số đứa con của anh ấy. Chiều hôm đó, tôi
đã đi xem một buổi biểu diễn ở phòng trưng bày nghệ thuật, để tâm tư được thoải
mái. Một lần nữa, Alister ngoái lại nói, “Mừng cho em.”
Dường như, có thể rằng, chúng tôi thoát ra khỏi đám đông đó, như thể
chúng tôi sẽ ở bên nhau một chốc lát. Nhưng cũng chắc rằng, chúng tôi sẽ tiếp
tục đi trên hai hướng khác nhau, và chúng tôi đã xa nhau.
Không có tiếng khóc hụt hơi, không có bàn tay đặt lên vai khi tôi bước
lên vỉa hè. Chỉ là ánh chớp mà tôi đã bắt gặp khi một con mắt của anh nhướng
lên. Con mắt bên trái, luôn luôn bên trái, như tôi ghi nhớ. Luôn luôn trông rất
kỳ lạ, báo động và tự hỏi, như thể điều gì điên rồ không thể xảy ra, khiến anh
suýt bật cười.
Tất cả chỉ như vậy. Tôi trở về nhà.
Mang theo cảm giác như lúc tôi rời thị trấn Amundsen. Chuyến tàu lôi kéo tôi đi, không tin nổi. Rõ ràng, không có gì thay đổi về tình yêu.
Ghi:
(1) To cast a pall: có nhiều nghĩa tùy vào mạch văn. Tôi đoán là món ăn
vặt thay vì rượu, có lẽ, bị cấm nơi làm việc.
(2) Buttercup: Hoa Mao Lương màu vàng.