14.
Mười chín tuổi, tôi trở thành một dân
quân du kích. Tôi được phát một khẩu súng và một băng đạn. Tôi cũng được tập bắn
súng, nhưng mỗi lần tập chỉ được bắn ba phát vì không có nhiều đạn. Khẩu súng
là vật bất ly thân, mặc dù công việc của tôi mỗi ngày là trồng ngô sắn, và đi
mua lương thực như thịt cá về cho nhà bếp. Có hôm vào rừng đẵn những cây nứa to
về làm lán, mỗi lán có ba, bốn du kích hay bộ đội trú ngụ. Lán của tôi do chính
tay tôi cùng với năm anh du kích khác dựng, nên tôi làm kỹ lắm, trước cửa tôi
còn trồng mấy bụi hoa rừng màu tim tím dễ thương.
Hình như có một tiểu đoàn bộ đội trú quân trong cánh rừng này, họ không
tập trung ở một nơi mà tản mác ra khắp các buôn bản xung quanh. Họ di chuyển
luôn luôn để tránh bị phát hiện. Hành tung của họ bí mật đến nỗi mặc dù vào sống
chung trong một khu rừng cả năm, sáu tháng rồi mà tôi vẫn không biết họ ở đâu,
làm gì mỗi ngày. Tôi nghe các anh du kích khác kháo nhau rằng châm ngôn của họ
là “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.” Khó nhất trong châm ngôn ba
điều này là nấu ăn không tỏa khói. Họ có một phương pháp đào lỗ, khoét rãnh dưới
đất làm lò nấu ăn, gọi là bếp Hoàng Cầm, chắc là do một anh nuôi nào đó tên
Hoàng Cầm sáng chế. Cái bếp làm rất khéo, phải chọn vị trí theo hướng gió để
không phải quạt ở cửa bếp, phủ trên miệng rãnh có những cành cây nhỏ đặt ngang.
Công dụng của nó là khói từ củi lửa tỏa ra theo các rãnh, tản mác bay lên không
trung thành những làn khói nhẹ rồi mau chóng tan biến chứ không thành cột. Nhờ
thế, máy bay thám thính của địch trên cao không biết dưới đất có một đoàn quân
đang trú đóng.
Thi thoảng gặp một anh bộ đội nào đó, tôi làm quen, nói chuyện vãn.
Trong số, tôi thân nhất với anh Sơn. Anh gốc Nam Định, trước ở Liên khu Tư,
Thanh Hóa, không hiểu sao bây giờ lại được biên chế về phục vụ trong tiểu đoàn
này ở đây. Tính tình anh khá ấm áp, nét mặt tình cảm. Khi quen nhau lâu hơn, có
lần tâm sự với tôi, anh nói người yêu anh ở Nam Định không chờ anh về mà đã lấy
chồng khác. Tôi đoán có lẽ vì thế anh đâm ra buồn bã và xin về đây chiến đấu
cho vơi bớt nỗi buồn. Nhưng chúng tôi không có thời gian nhiều cho những chuyện
tình cảm vu vơ. Nhiều hôm tôi thấy anh vắng mặt cả tháng trời. Hỏi ra mới biết
anh vừa trở về sau một vụ “nhổ” đồn Tây. Anh kể tôi nghe về vụ công đồn, giọng
anh buồn bã chứ chẳng hào hứng như anh bộ đội hôm ghé lớp học của tôi kể về trận
Sông Lô. Anh nói mỗi lần đi “nhổ” đồn Tây, anh lại mất một số bạn, và không biết
bao giờ đến phiên anh. Nhưng ngay sau đó anh tự an ủi, “Chiến tranh, đạn tránh
mình chứ mình làm sao tránh được đạn. Số mình chết thì sẽ chết thôi.”
Tôi chưa được dự một trận đánh nào. Dân quân như tôi chỉ đi theo thu dọn
chiến trường chứ ít khi tham gia chiến trận lớn, ngoài những lần đi tuần, phục
kích những đám lính Tây đi lẻ tẻ hay dò thám động tĩnh vùng Tây đóng. Cho đến một
hôm, anh đội trưởng đội du kích bảo bọn tôi chuẩn bị vũ khí đạn dược sáng sớm
mai lên đường. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi, hai tiểu đội du kích, mất hơn ba tiếng
đồng hồ trèo đèo lội suối mới đến một khu rừng khác rậm rạp hơn. Giữa cánh rừng
bạt ngàn, giữa trưa không thấy ánh mặt trời, tôi thấy một ngôi nhà lớn và nhiều
lán làm bằng nứa rải rác xung quanh. Trên đường đi vào có nhiều trạm canh được
ngụy trang bằng lá cây rừng, người ở trong bất ngờ nhảy xổ ra lúc nào không biết,
chặn đường hỏi mật khẩu, súng trường lăm lăm trên tay. Tôi đoán đây là bản
doanh của tiểu đoàn. Đến nơi, chúng tôi được lệnh nghỉ ngơi, đem lương khô ra
ăn. Tôi ngồi dưới một gốc cây to, vén quần lên bắt hết vắt, đỉa trên ống chân,
đùi mới giở món ăn của mình đựng trong một ống tre. Tôi hồi hộp không biết Xụ
Phụn Phèn làm món gì cho tôi ăn. Hóa ra là mèn
mén. Biết sáng nay tôi ra trận, cô dậy từ lúc gà chưa gáy để nấu món này cho
tôi đem theo, đủ ăn ít nhất ba ngày. Đưa vội ống tre cho tôi nhét vào ba-lô, cô
quay mặt chạy đi ngay, không nói một lời, nhưng tôi vẫn kịp thấy hai dòng nước
mắt của cô giàn giụa chảy xuống hai bên má. Xụ Phụn Phèn là cô gái H’Mông mới
mười lăm tuổi nhưng yêu tôi lắm. Da dẻ cô trắng hồng chứ không đen đủi như nhiều
cô H’Mông khác. Khuôn mặt cô trong sáng, đôi mắt nâu, hai làn môi mỏng lúc nào
cũng thắm đỏ, và khi cô trút bỏ chiếc áo thổ cẩm màu đen, nằm dài trên thảm cỏ
mượt mà bên bờ suối thì trước mắt tôi hiện ra một bông hoa rừng tuyệt đẹp, chờ
đợi tôi cúi xuống chiêm ngưỡng và chiếm đoạt. Cô dạy tôi nói tiếng H’Mông và nấu
những món ăn của dân tộc cô cho tôi ăn, tôi thích nhất món mèn mén này. Nó được
xem là món ăn chính của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc bởi được chế biến từ ngô,
một thứ nông phẩm sẵn có, trồng ở miền núi cao dễ hơn là lúa gạo. Mèn mén có thể
để dành ăn trong ngày hoặc vài ngày khi đi nương, đi rừng. Làm món ăn này, người
phụ nữ dân tộc phải mất khá nhiều thời gian để chế biến cho được mẻ mèn mén vừa
dẻo vừa thơm. Tôi vừa ăn vừa nghĩ đến Xụ Phụn Phèn, tôi hình dung cô trong chiếc
váy thổ cẩm màu đen, đầu chít khăn, lưng đeo lù kở, đang đi trên những con đường mòn dốc thoai thoải giữa một
vùng thiên nhiên bao la xanh thẳm. Tôi nhớ cô quá mất thôi.
Chiều
chưa xuống mà sương lam đã phủ kín mờ mịt không gian. Đoàn ngựa thồ của toán bộ
đội hậu cần vừa về đến nơi, họ khuân xuống những bao tải to tướng. Một chặp
sau, mọi người được mời ra ăn tối. Bàn ghế làm bằng những thân cây rừng ghép lại.
Mọi người cầm đũa tre, khi ăn, một đầu gắp thức ăn, xong trở đầu đũa và cơm vào
miệng. Thức ăn để trên những tàu lá chuối, không có canh, thịt toàn là thịt
trâu, và rau củ vài loại. Bát cơm, ai có thì dùng, còn không, phải dùng ca uống
nước thay thế. Xung quanh tôi, toàn màu rêu áo trấn thủ, vì khí trời đã rét buốt.
Đông lắm, có lẽ cả tiểu đoàn tập kết tại đây trước giờ công đồn. Ăn xong, mọi
người ai nấy cầm bát đũa dơ ra suối rửa, con suối nhỏ cách đấy không xa. Có một
toán bộ đội đi thu dọn rác rến đem chôn dưới một cái hố lớn. Có cả kẹo lạc và
trà nóng đem ra cho mọi người thưởng thức. Buổi tối là giờ học tập, nghe hiệu
triệu từ các cấp chỉ huy, và sau cùng là chương trình văn nghệ hát những bài
hùng ca. Tất cả chui vào căn nhà lớn, chen chúc nhau ngồi xếp bằng dưới sàn. Học
tập và hiệu triệu thì tôi chẳng thấy hứng thú gì mấy, toàn những điều đã nghe cả
trăm lần, nhưng chương trình văn nghệ phong phú và hấp dẫn lắm, có cả màn kịch
do ban kịch của tiểu đoàn trình diễn. Có sân khấu đàng hoàng, dù chỉ là cái bục
cao chưa tới đầu gối. Vở kịch tuyên truyền, kích động lòng căm thù giặc Tây, nhưng
diễn viên khá xuất sắc nhất là vai nữ. Trong các bài hùng ca, tôi thích nhất
bài Xuất quân của ông Phạm Duy. Chẳng biết lúc này ông đang ở đâu, nghe nói ông
đi cùng khắp đất nước hát cho bộ đội nghe, thậm chí Bình Trị Thiên ông cũng đã
vào. “Ngày bao hùng binh tiến lên. Bờ cõi
vang lừng câu quyết chiến…” Nghe cả trăm cái miệng cùng há to hát, có tiếng
đàn ghi-ta của hai anh bộ đội thì thùng đệm theo, tôi có cảm giác máu trong người
chảy mạnh.
Lúc học tập
và nghe hiệu triệu, các đơn vị ngồi riêng ra, nhưng lúc văn nghệ thì mọi người
tìm bạn ngồi với nhau, vừa hát vừa nói chuyện vãn rôm rả. Anh Sơn cũng có mặt.
Ban chiều tôi nhác trông thấy anh ngoài rừng, nhưng không tiện lại hỏi han. Lúc
ngồi xem kịch nghe hát, anh lại chỗ tôi ngồi, rút bao Bastos mời tôi, anh bảo
bao thuốc lá là chiến lợi phẩm trong trận “nhổ” đồn Tây cách đây hai tháng. Anh
thích nói chuyện với tôi, có lẽ vì thấy tôi chịu khó lắng nghe chuyện người
khác. Mộng ước của anh là sau này trở thành nhà văn, nên lúc nào anh cũng giữ một
cuốn sổ tay nhỏ trong ba-lô, ngồi đâu là rút sổ ra hí hoáy viết. Những kinh
nghiệm sống này sẽ không bao giờ tìm lại được, anh bảo tôi. Chỉ cần sau này viết
lại những gì mình trải nghiệm trong cuộc chiến tranh này là đã quá dư thừa cho
những tác phẩm hay. Nhưng làm sao viết được những tác phẩm hay? Kinh nghiệm bản
thân chỉ cho mình chất liệu tốt chứ chưa chắc giúp mình cho ra đời một tác phẩm
hay để đời. Anh bảo. Chỉ có cách đọc những danh tác quốc tế, và muốn thế phải
có căn bản ngoại ngữ. Mình đọc họ không phải để xem họ viết cái gì. Cái gì, không
quan hệ. Chuyện đời, bản chất con người, đâu đâu cũng như nhau, thời nào cũng vậy.
Cái quan hệ là xem họ viết như thế nào. Làm văn là viết như thế nào chứ không
phải viết cái gì… Có vẻ như anh sinh ra để viết văn chứ không phải đánh giặc.
Anh bảo tôi văn học Việt Nam mình còn non nớt lắm, nổi đình đám hơn cả là nhóm
Tự Lực Văn Đoàn, nhưng trong nhóm chẳng ai có tầm vóc quốc tế, ông Nhất Linh
thì viết theo công thức luận đề xã hội, đọc chán phè phè, ông Thạch Lam thì chỉ
có cái văn chương đèm đẹp. “Nếu viết văn, tôi sẽ viết như Dostoevsky.” Anh nói
tiếp. “Minh đã đọc ông nhà văn người Nga này bao giờ chưa? Nếu chưa thì sau này
có dịp nên tìm đọc. Văn chương của ông ấy khai thác tâm lý con người đến tột
cùng ở bối cảnh chính trị, xã hội của nước Nga vào cuối thế kỷ mười chín, nhưng
khi đọc ông, ta không thấy xa lạ…”
“Ông này
đúng là dân Nam Định trăm phần trăm.” Nghe anh nói tôi nghĩ thầm trong bụng.
Dân Nam Định hình như ai cũng là văn sĩ, thi sĩ, và chẳng bao giờ họ xem kẻ
khác viết ra cái gì. Nhưng tối nay, trong bầu không khí say sưa phấn khích trước
ngày ra trận, anh không bàn luận văn chương với tôi, anh choàng tay qua vai tôi
thân mật rù rì chuyện trò, kể nhiều điều thú vị về các nhân vật quan trọng
trong tiểu đoàn. Chẳng hạn như ông thiếu tá Lê Lân, chỉ huy trưởng tiểu đoàn.
“Ông này
có mối thù không đội trời chung với Pháp vì cha ông ấy bị mật vụ Pháp giết.”
Anh Sơn bảo tôi.
“Cha ông ấy
bị giết trong trường hợp nào, hả anh?” Tôi hỏi lại anh.
“Thì lập
hội kín chống Pháp, tổ chức ám sát sĩ quan Pháp ngay Hà Nội, bị mật vụ Pháp ghi
tên vào sổ đen truy lùng. Mật vụ Pháp tìm bắt mấy lần không được, vì ông ta trốn
lên Yên Bái này. Vợ con ở một nơi bí mật khác. Thế mà Phòng Nhì Pháp truy ra.
Chúng nó bắn ông chết ngay trước cửa căn nhà trọ. Sau này có người bảo ông bị mật
thám Pháp phăng ra vì có kẻ tố giác nơi ông ẩn nấp. Vì thế ông Lê Lân thù Pháp
một, thù tay sai cho Pháp mười.”
Chuyện
ông Lê Lân chưa hết, anh Sơn lại thì thào vào tai tôi:
“Minh thấy
nhóm bộ đội có anh chàng tóc húi cua, răng hô như cải mả ngồi gần sân khấu
không? Họ trong toán cảm tử đấy. Có ít nhất một anh ngày mai ôm bom ba càng.”
Tôi cũng
đang thắc mắc về nhóm bộ đội này. Họ có chừng chục người, ngồi tách biệt hẳn với
mọi người xung quanh, ngay cả lúc ăn cơm ngoài mé rừng, và không hề thấy họ mở
miệng nói với ai câu nào. Họ cũng không vỗ tay hát theo những bài hùng ca. Họ
dõi mắt nhìn lên sân khấu với những đôi mắt vô cảm như thể tâm tư họ để mãi đâu
đâu. Nghe anh Sơn nói, tôi mới biết họ là những chiến sĩ trong đội quyết tử, và
họ biết ngày mai họ sẽ chết. Tôi thấy mặt mày họ lạnh lẽo đến độ lạ lùng, không
hiểu trong đầu họ lúc này đang nghĩ ngợi gì.
Nhưng tôi
biết bom ba càng là gì. Tôi từng thấy nó lúc Trung đoàn Thủ đô chặn đánh quân
Pháp ở Hà Nội. Nó là một thứ vũ khí chống tăng cảm tử, có dạng
hình phễu, bộ phận kích nổ là ba chiếc càng sắt nhú ra từ đầu bom, vì thế người
ta gọi nó là bom ba càng. Quả bom được lắp vào một thanh gậy gỗ dài hơn một thước.
Chiến sĩ đánh bom ôm thanh gậy với quả bom như cầm giáo lao vào hông tăng địch,
bom nổ, lớp thép dày của chiếc tăng bị xuyên thủng, nhưng chiến sĩ cũng tan xác
theo.
“Họ có được hưởng ân huệ sau cùng gì trước
cái chết ngày mai không, anh?” Tôi hỏi anh Sơn một câu có vẻ hơi ngớ ngẩn.
“Có chứ. Minh đợi tí nữa sẽ biết.”
Mãi khuya mọi người mới lục tục đứng dậy ra khỏi ngôi nhà, chui vào lán đi ngủ. Tôi thấy một nhóm phụ nữ ăn mặc như dân quân đến nắm tay các anh cảm tử quân. Mỗi chị nắm tay một anh. Từng cặp, họ chui vào những gian buồng quây bằng nan trông như bồ lúa sát vách sau ngôi nhà. Và tôi hiểu.
15.
Chiều hôm sau mọi người ăn cơm sớm. Quanh bãi đất
trống, tôi thấy vũ khí bày la liệt, có cả hai khẩu súng cối 60 ly dựng dưới gốc
cây, vài khẩu đại liên, trung liên với những hòm đạn cũ kỹ, các loại súng nhẹ
máng trên cành cây hoặc chụm ba lại thành giá súng dưới đất. Cơm nước xong, mọi
người lại lục tục kéo vào ngôi nhà lớn. Sân khấu đêm qua bây giờ được di chuyển
ra giữa nhà, trên đặt một sa bàn y hệt đồn Pháp. Mọi người vào ngồi xung quanh.
Đợi ai nấy yên vị, ông Lê Lân đứng dậy, tay cầm một thanh que dài chỉ lên sa
bàn nhắc lại nhiệm vụ của từng đơn vị. Đồn có bao nhiêu sĩ quan chỉ huy, bao
nhiêu lính Pháp, bao nhiêu lính Partisan, bao nhiêu lính ta, lính Thổ, bao
nhiêu súng nặng nhẹ, bao nhiêu xe, bao nhiêu lương thực, kho đạn để chỗ nào,
tinh thần lính trong đồn ra sao, nhất nhất đều đã được nội tuyến báo cáo đầy đủ.
Không khí thật trang nghiêm. Tôi nhìn nét mặt mọi người rắn đanh như sắt thép.
Lúc này tôi mới có dịp nhìn rõ ông Lê Lân. Người ông tầm thước, khuôn mặt không
có gì đặc biệt, nước da tái, hai môi dầy, thâm, nhưng cặp mắt như có tia điện
quang chiếu lấp lánh, giọng nói gằn từng tiếng, sắc lạnh, nghe tàn nhẫn.
Trời sâm
sẩm tối, mọi người được lệnh lên đường. Bộ đội vũ trang súng ống đạn dược đeo đầy
trên người. Đội cảm tử cầm những ống bộc phá nội hóa dài, thang tre và kìm cắt
dây thép gai. Tôi cũng khoác súng lên đi theo toán du kích do anh đội trưởng hướng
dẫn. Chúng tôi, tay chống gậy tre, đi trong im lặng xuyên qua những cánh rừng
thâm u rùng rợn giữa tiếng côn trùng rỉ rả. Đến gần nửa đêm thì có lệnh dừng lại,
chia quân thành hai toán, một toán lên công đồn, toán kia bố trí chỗ phục kích
viện binh địch. Chiến thuật công đồn đả viện này được các đồng chí Trung quốc dạy
kỹ lắm. Tôi đi theo toán quân công đồn, tiếp tục đi nữa. Tiếng súng đại bác của
Pháp từ trong đồn bắn đi ầm vang cả núi rừng, nhưng đấy chỉ là tiếng súng cầm
canh thường lệ, bắn vu vơ. Đi cả tiếng đồng hồ nữa, tôi được lệnh nằm chờ sau mấy
mô đất. Dưới ánh sao trời, tôi lờ mờ trông thấy cái đồn Pháp. Tiếng súng đại
bác đã dứt, chỉ còn tiếng đêm của núi rừng yếu ớt, đứt quãng như đang thoi thóp
chờ đợi cái gì hung bạo khiếp hãi sắp xảy ra. Không biết bộ đội nấp ở đâu, họ
như bóng ma, mới thấy đó đã biến đâu mất tăm. Tôi thấy hồi hộp trong lòng. Chẳng
gì khổ sở hơn khi phải chờ đợi ở những giây phút nặng nề nghẹt thở như vầy, nhưng
tôi vẫn phải chờ.
Đồn bót
là một thất bại lớn trong chiến lược chống Việt Minh lúc bấy giờ của Pháp. Để đương
đầu một đoàn quân lúc ẩn lúc hiện như bóng ma, Pháp cho quân mình chường mặt ra
trong những đồn bót đặt khắp nơi, phơi bày như những bia tập bắn. Việt Minh nắm
thế chủ động. Tuy không đủ quân xa, hoàn toàn không có phi cơ, nhưng họ muốn đi
đâu, muốn đánh chỗ nào, lúc nào, tùy ý. Trong khi quân Pháp chết bẹp dí trong
những pháo đài chẳng lấy gì làm kiên cố, thường lại không đúng chỗ hoặc không
thể giữ được vì vị thế hiểm trở, tiếp tế và cứu viện khó khăn, như cái đồn bộ đội
sắp “nhổ” đây. Nó nằm trơ trọi giữa một mỏm đất cao, từ đó dùng ống nhòm có thể
dễ dàng quan sát quốc lộ chạy dài bên dưới, nhưng chẳng ai ngu dại vác súng đi
ngờ ngờ trên quốc lộ cho bị phát hiện. Các tướng lĩnh Pháp, ông nào ông nấy đầy
sao lấp lánh trên cầu vai binh phục – năm sao như Carpentier, Navarre, bốn sao
như Valluy, Salan, ba sao như Alessandri, De Linarès – mà sao không nhớ nổi lời
dạy của Napoléon: Les forts sont faits
pour être pris!
Hơi lạnh
của núi rừng bây giờ thấm vào người tôi, mặc dù tôi đã thủ chiếc áo dạ bên
trong bộ quần áo vải dân quân màu đen bạc phếch. Hình như tôi thiếp đi thì phải.
Lạnh thế mà vẫn ngủ được. Tôi chỉ choàng tỉnh khi nghe tiếng súng cối nổ phát đầu
tiên và tiếng đạn xé gió rít trên không trung nghe rợn người, và tiếp theo là
tiếng súng lớn nhỏ nổ dồn dập liên hồi. Khi hai quả hỏa châu tỏa sáng trước cổng
đồn, tôi thấy bộ đội cầm súng vừa bắn vừa chạy lên. Họ dũng cảm lắm, súng bắn
xuống như mưa mà vừa nghe tiếng “Xung phong!” là họ cúi rạp người chạy lên,
không hề chần chừ. Đội cảm tử đã cắt đứt hàng rào thép gai vừa đủ chỗ cho một
người lọt qua, nhưng hai khẩu đại liên từ sau lô cốt và mấy chục họng súng nhỏ
khạc lửa ra dữ dội khiến hết lớp xung phong này đến lớp khác lao lên mà vẫn
chưa dứt điểm được. Một lúc lâu sau, tiếng súng thưa dần, không thấy bộ đội
xung phong nữa, tôi tưởng trận chiến đã kết thúc. Nhưng không. Chỉ mươi phút
sau tiếng súng lại nổ giòn, lần này ở phía sau đồn chứ không phải phía trước. Một
toán bộ đội cảm tử khác dùng thang tre trèo lên đột kích sau đồn, nơi phòng vệ
yếu hơn. Vài bộ đội đã tràn vào sân đồn, hai khẩu đại liên quay mũi, và chỉ đợi
có thế, hai anh bộ đội từ phía trước liều chết phóng lên ném tới tấp những ống
bộc phá. Bộc phá nội hóa chỉ gây tiếng nổ mạnh chứ ít khi gây tử vong, nhưng đủ
làm chấn động nghẹt thở quân địch trong tích tắc, và tại chiến trường một tích
tắc là quá đủ cho một tràng đạn từ phía bên kia ghim lên thân xác mình. Lúc đó,
hàng rào dây thép gai đã mở toang, chiếc cổng lớn cũng bị trung liên bắn sập, bộ
đội túa lên như đàn ong vỡ tổ. Mãi lúc bấy giờ mới nghe anh đội trưởng du kích
hô to “Anh em xung phong!” Tôi lồm cồm ngồi dậy ôm súng chạy lên đồn. Xung
phong cái quái gì nữa, giống như đang tập trận giả thôi. Xác bộ đội nằm kín lối
đi, người chết kẻ bị thương. Vài bó đuốc được đốt lên soi sáng cảnh chiến trường
tan hoang, hãi hùng. Đội cứu thương đang làm phận sự. Cả cái đồn bốn, năm chục
lính Pháp, lính Việt, lính Thổ, đầu bếp, lao công, không ai sống sót, người
buông súng giơ tay đầu hàng cũng bị bắn, kẻ bị thương được bồi một phát ân huệ
vào đầu. Không có tù binh.
Cáng tre
được đem lên khiêng bộ đội tử trận và bị thương. Tôi thuộc toán này. Nhưng lúc
tôi đến nơi, họ đã làm gần xong. Tôi được chỉ định khiêng chiến lợi phẩm gồm
súng ống, đạn dược, thuốc men, thực phẩm, và cả thuốc lá. Chạy lục soát các
phòng, tôi bỗng thấy mình lọt vào phòng của trưởng đồn, tôi đoán thế, vì phòng
có giường nệm và bộ quân phục quan Ba còn vắt trên thành ghế. Đồ vật tung tóe
dưới sàn, tôi thấy một khung ảnh. Tôi nhặt lên xem, mặc dù mặt kính đã vỡ, tôi
vẫn thấy ảnh một thiếu phụ da trắng bế một cậu bé trai kháu khỉnh. Chắc là vợ
con người trưởng đồn. Ông ta không kịp mặc quân phục, cầm súng ra chiến đấu và
bây giờ chết bỏ xác ở đây. Vợ ông ta nghĩ gì khi nghe tin chồng mình tử trận ở
cái chốn đèo heo hút gió này? Còn thằng con? Nó mất cha từ khi chưa biết nói, tương
lai nó sẽ ra sao? Nhưng tôi không có thời gian nghĩ ngợi thêm vì có tiếng người
lao xao ở phía trước. Tôi chạy ra, thấy thiếu tá Lê Lân đang đứng trước một xác
chết còn mặc đồ ngủ kiểu nhà binh một mảnh liền từ cổ xuống chân bó sát người,
chắc là xác người trưởng đồn mà tôi vừa xem ảnh vợ con ông ta. Dưới ánh đuốc,
tôi thấy ông ta còn trẻ lắm, chắc không quá ba mươi, râu quai nón và tóc màu
hung đỏ. Ông bị một tràng đạn ghim lên ngực, máu ướt đỏ bộ đồ ngủ màu trắng
ngà. Đứng cạnh là anh Sơn. Mấy người bộ đội khác đứng vòng ngoài, tay hờm súng trong
tư thế tác chiến. Tôi nghe ông Lê Lân quát bảo anh Sơn:
“Đồng chí
Sơn! Tôi ra lệnh cho đồng chí cắt đầu thằng Tây này cho tôi. Tại sao đồng chí
cãi lệnh tôi, hử?”
“Tôi không quen làm công việc này. Xin đồng chí chỉ định một đồng chí
khác.” Anh Sơn gượng gạo trả lời.
“Chúng ta không có thời gian. Đồng chí phải làm ngay. Đồng chí mà còn từ
chối, tôi sẽ ghép đồng chí vào tội bất tuân lệnh thượng cấp, đồng chí sẽ phải
chịu hình phạt kỷ luật.”
Anh Sơn miễn cưỡng ngồi thụp xuống bên xác người sĩ quan Pháp. Anh thò
tay ra sau định tìm dao nhưng chắc chợt nhớ mình không có dao găm hay con dao lạc
đâu mất rồi, anh ngần ngừ trong chốc lát rồi rút lưỡi lê từ đầu khẩu súng trường
ra, dùng nó cứa cổ cái xác. Nhưng cái lưỡi lê dài cả nửa thước dùng để đâm, muốn
cắt không dễ dàng, anh cứa đi cứa lại mãi mà chỉ có tí máu rướm ra, yết hầu của
người trưởng đồn vẫn không đứt. Anh bèn chọc mạnh lưỡi lê vào một bên cổ đoạn
dùng sức giật ngược ra. Máu ộc ra thành vũng dưới đất. Anh làm mấy lượt như thế
mà cái đầu vẫn không đứt hẳn. Bây giờ dây nhợ lòng thòng đỏ loét, không biết là
những thứ gì, từ trong cổ người trưởng đồn theo lưỡi lê xổ tung ra bầy nhầy như
lũ giun sán. Loi nhoi lúc nhúc. Anh vẫn kiên nhẫn chọc vào giật ra từng mảnh nhỏ
một. Cái cổ người trưởng đồn nát ngướu nhưng nó không chịu đứt lìa vì cột sống
vẫn dính liền với đầu. Anh có vẻ lúng túng, chẳng biết phải làm sao. Cuối cùng
anh trở ngược báng súng đập cho giập nát chỗ cột sống mới bứt được cái đầu ra
khỏi thân mình. Anh túm tóc cái đầu lâu khủng khiếp đưa cho ông Lê Lân. Ông này
cầm lên nhìn chòng chọc, mặt ông đanh lại, nhổ một bãi nước bọt vào mặt nó. Đoạn
ông ra lệnh cho một anh bộ đội khác cắm nó vào một cây sào tre đem dựng trước cổng
đồn. Tôi thấy anh Sơn cầm súng lên lảo đảo đi vài bước rồi ôm ngực nôn thốc nôn
tháo. Một lúc lâu sau anh mới định thần lại được và theo đoàn người, hai người
khiêng một cái cáng, dò dẫm từng bước đi xuống chân đồi, bỏ lại phía sau cái đồn
đang bốc cháy với cái đầu lâu của người trưởng đồn lắc lư trên đầu ngọn sào.
Nhìn theo. Những sợi dây lòng thòng từ cái cổ nát ngướu, chẳng biết là gì, dây
thần kinh, động mạch, tĩnh mạch, đung đưa như lá phướn vẫy chào đoàn chiến
binh, hẹn ngày tái ngộ.
Các sợi dây thần kinh trong người tôi hình như đều quá mức chịu đựng, nhưng không hiểu sao tôi đứng đó như trời trồng nhìn cho đến hết cái màn cắt đầu chỉ có thể diễn ra dưới địa ngục. Nó như cơn ác mộng. Không, có lẽ nó khủng khiếp hơn ác mộng, vì trong ác mộng, tuy ta chẳng trốn vào đâu được nhưng khi tỉnh giấc những hình ảnh đó phai nhạt dần rồi biến mất hẳn khỏi tâm trí ta. Còn sự thật tôi chứng kiến khiếp đảm hơn ác mộng vì chẳng hiểu sao nó bắt tôi đứng đó thu hết từng chi tiết vào ký ức, và nó vẫn bám chặt tôi, bắt tôi chịu đựng sự hành hạ của nó suốt đời.
–
Trịnh Y Thư
(Trích đoạn tiểu thuyết Đường về thủy phủ).