Steele Rudd là bút danh của Arthur Hoey
Davis, nhà văn Úc, nổi tiếng với tập truyện ngắn On Our Selection. Ông là con
thứ tám của một gia đình có tới 13 người con. Thuở nhỏ, Steele Rudd học tại một
trường nhỏ ở địa phương nhưng nghỉ học sớm, khi mới 12 tuổi và đi làm những việc
lặt vặt tại một nhà ga, ba năm sau là người chăn súc vật ở nơi đây. Năm 18 tuổi,
ông được bổ làm thư ký trong văn phòng của người phụ trách những vùng đất vô chủ
ở Brisbane.
Năm 1889, Davis được chuyển đến văn
phòng quận trưởng, và thời gian rảnh ông thường đi chèo thuyền và bắt đầu viết
trong một chuyên mục về môn này trên một tuần báo địa phương với bút danh
Steele Rudd.
Khoảng cuối năm 1895, Davis gởi một bản
tóm tắt về kinh nghiệm của cha ông “ Khởi nghiệp “ cho tờ The Bulletin. Bài này
được in vào số báo ngày 14/12/1899. Được khích lệ, ông tiếp tục viết và vẫn được
đăng. Sau này những bài đó được đăng trên những ấn phẩm rẻ tiền, đến 1930 đạt tới
250 000 bản.
Năm 1930, tuyển tập On Our Selection ra
đời và cũng vào năm này ông từ bỏ đời công chức. Tháng 1 năm 1904, Davis mua hẳn
tạp chí Rudd’s Magazine, báo ra hàng tháng và tiếp tục được bốn năm. Ban đầu
báo xuất bản ở Brisbane, sau chuyển về Sydney. Tạp chí này sống lâu hơn những tờ
khác nhưng vẫn không có nhiều độc giả, suốt bảy năm, báo đổi tên nhiều lần.
Davis cho in loạt bài trên tuyển tập On
Our Selection. Phần lớn đều thành công tuy nhiên vẫn không có nhiều lợi nhuận
vì giá rẻ. Gần cuối đời, ông còn in hai tác phẩm nữa nhưng ông vẫn thấy nếu
mong nổi tiếng về một phương diện thôi thì khó có độc giả cho những tác phẩm viết
nghiêm túc hơn.
Danh tiếng của Davis chủ yếu nhờ vào những
truyện ngắn viết về đời sống nông thôn.
Truyện ngắn dưới đây là tiêu biểu cho
khuynh hướng đó: nước Úc mùa khô hạn, thường xảy ra cháy rừng, không trồng trọt
gì được. Nhan đề của truyện là “ When the wolf was at the door “ là thành ngữ
không dịch theo nghĩa đen được, ý chỉ tình trạng khó khăn, thiếu thốn. Người dịch
chuyển thành Cảnh bần hàn.
Truyện trích từ tuyển tập On Our
Selection, Chương IV.
CẢNH BẦN HÀN
Thời tiết khô hạn kéo dài, và gia đình
tôi nạo vét hồ nước. Bố đang ở dưới đó xúc từng xẻng đất hất tung lên, Joe thì
ngồi trên bờ bắt ruồi rồi vặt hết cánh thả cho chúng đi, một trò chơi ưa thích
của nó, trong khi đó anh Dan và Dave xẻ rãnh để dẫn nước chảy từ đỉnh núi vào hố
khi trời mưa. Bố khát khô cổ họng, bảo Joe đi kiếm thứ gì uống.
Joe nói với Bố:
-
Bố ơi, bố xem con ruồi này
có bay được bằng một cánh không nhé.
Nói xong, nó bước đi, nhưng quay trở lại
và nói: “ Trong thùng không còn giọt nước nào bố ạ. Mẹ lấy nấu bí đỏ hết rồi. “
Và nó lại bắt ruồi. Bố cố nhổ nước bọt và đang định nói thì mẹ đã đi đến khoảng
giữa căn nhà và hố nước rồi kêu lên rằng cả đồng cỏ đang bị cháy.
-
Bố xem này, thế là xong”.
Joe vừa nói vừa lấy ngón tay từ từ và nhẹ nhàng rút đầu con ruồi ra.
Bố nhoài người ra khỏi hố nhìn và chỉ
nói có một chữ: “ Trời!”
Bố chạy thật là nhanh. Bọn tôi chạy theo
sau, trừ thằng Joe không sao chạy nhanh được vì hôm trước nó đã cỡi con ngựa tồi,
đi tới mười lăm dặm lại không thắng yên. Đến gần đám cháy, bố dừng lại để nhổ một
bụi cây xanh. Bố vớ phải một bụi rất chắc. Bố rất vội nhưng nào cây có vội gì
đâu. Bố vừa văng tục, vừa dùng hết sức bình sinh mà kéo. Rồi cái bụi cây cũng bật
lên, làm bố ngã ngửa rất mạnh, thế là bố lại văng tục.
Bố lo nhất làm sao cứu được hàng rào cây
quanh vườn. Chúng tôi vung cành dập lửa tứ phía. Nóng quá sức, nóng khủng khiếp.
Gió ngừng lúc nào chúng tôi làm việc lúc ấy. Cành cây của bố vung lên vun vút
chẳng khác gì cánh cối xay gió. Khi cành cây bố dùng để dập lửa đã cháy cụt thì
chỉ thoáng một cái bố đã kiếm được một cành khác. Khi chúng tôi đã gần dập được
đám cháy thì gió lại ào đến ngọn lửa lại bốc cao hơn và nhanh hơn lúc trước nhiều
lắm.
Cuối cùng bố nói: “ Vô ích”, bố một tay
vò đầu, còn một tay ném cành cây xuống. Tất cả chúng tôi làm theo, đứng nhìn
hàng rào cháy trụi. Ăn tối xong, chúng tôi lại ra và thấy hàng rào vẫn đang
cháy. Joe hỏi bố xem ông có thấy cảnh đó huy hoàng không. Bố không trả lời, tối
hôm đó hình như bố không có hứng thú trò chuyện thì phải.
Chúng tôi quyết định dựng lại hàng rào.
Anh Dan đi lấy cái dũa hỏng ra mài lại cái rìu cho sắc, rồi cùng bố định bắt
tay làm thì mẹ đến hỏi phải làm thế nào với chỗ bột mì. Mẹ bảo vét mãi mới đủ
làm bánh cho bữa sáng, và nếu không kiếm đâu ra nữa thì bữa tối sẽ không có
bánh mì ăn.
Bố ngẫm nghĩ, còn anh Dan lấy ngón tay
cái rờ vào lưỡi rìu.
Bố hỏi:” Thế bà Dwyer không cho vay một
ít cho tới lúc chúng ta có à?”
“ Không”, mẹ trả lời. Chưa trả được chỗ
bột mì mình còn nợ, đâu dám hỏi vay nữa.
Bố lại ngẫm nghĩ.
-
Còn bên nhà ông Andersen thì
sao ?
Mẹ lắc đầu, hỏi rằng làm như thế liệu có
ích gì khi mới vừa sáng nay họ đã hỏi vay bà một ít.
-
Thôi được rồi, chúng ta phải
cố hết sức thôi. Bố trả lời. Để tối nay tôi ra cửa hàng xem sao.
Dẫu bố vội đến đâu nhưng công việc dựng
lại cái hàng rào thì lại vô cùng phiền toái. Bố đốn cây con, mà đâu chỉ có cây
con, trong đó có cả cây to, còn chúng tôi mồ hôi nhễ nhại kéo những cây gỗ đó
thành hàng. Bố làm hùng hục như trâu và ông mong chúng tôi cũng làm như thế.
-
Việc gì cứ phải ngó nghiêng
thế. Bố lại nói mỗi khi bắt gặp chúng tôi nhìn mặt trời xem đã đến giờ ăn tối
chưa. - Có muốn dựng cái hàng rào cho xong và thu hoạch cho tốt thì phải nhanh
chân nhanh tay lên.
Anh Dan làm việc hăng say không kém bố
cho đến lúc một cái gốc cây con rơi vào chân khiến anh phải nhảy lò cò, kêu đau
và chán không muốn làm cái hàng rào chết tiệt kia nữa, Anh tranh luận với bố, dứt
khoát cho rằng cứ dựng ngay một hàng rào bằng dây thép còn tốt hơn nhiều, thế
là ổn thoả thôi, chẳng hơi đâu lãng phí thời gian vào cái thứ rồi thế nào cũng
bị cháy lần nữa ấy.
-
Bố tính xem mất độ bao lâu mới
kiếm đủ cọc. Không thể một tuần được.
Nói xong anh nện cái gậy cầm tay xuống đất
một cách bực bội.
-
Đồ ăn hại! Bố nói. Thế mày
không còn biết nghĩ cái gì nữa à con? Không có
dây thép thì làm quái gì dựng được hàng rào chứ.
Sau đó, chúng tôi nghỉ tay đi ăn cơm tối.
Bữa ăn đó chẳng ai thấy hứng thú trò
chuyện. Mẹ ngồi im lặng cuối bàn ăn và rót nước trà, còn bố ở đầu bàn bên kia
múc canh bí đỏ và chia món thịt ướp nguội lạnh, Mẹ không đụng đến món thịt,
không thôi một trong chúng tôi sẽ không có gì mà ăn cả.
Tôi không hiểu vì cãi cọ với anh Dan hay
là vì bữa tối không có bánh mì ăn nên bố
cáu kỉnh. Bố mắng Joe ăn cơm mà để tay dơ. Joe kêu rằng nó không rửa tay được
vì khi anh Dave rửa xong, anh đã hất cả chỗ nước đi. Bố quắc mắt nhìn anh Dave,
còn Joe tuồn cái bát xin thêm bí đỏ.
Bữa ăn sắp xong thì anh Dave trông có vẻ
vẫn đói đã nhe răng cười và hỏi đùa anh Dave có muốn ăn bánh mì không. Nghe thấy
thế bố chồm lên giận điên người.
-
Mày hỗn xược quá! Bố mắng
anh Dave. Mày dám nhạo báng chuyện đó à?
- Ai nhạo báng hả bố ? Anh Dave lại cười
nhăn nhở.
- Cút ngay! Bố giận dữ quát, tay chỉ ra cửa.
Cút ngay ra khỏi nhà tao, đồ vô ơn!
Tối hôm
đó anh Dave bỏ đi.
Sau đó
bố phải hứa danh dự là sẽ trả bớt nợ trong hai tháng, người chủ cửa hàng mới để
chúng tôi mua chịu một bao bột mì nữa. Bao bột mì đó mang lại bao thay đổi
trong nhà tôi! Ngay lập tức, cả nhà trở nên vui vẻ. Và bố tỏ ra rất phấn khởi
khi nói về trang trại và viễn cảnh của mùa tới.
Bốn
tháng trôi qua. Đến một lúc nào đó cũng đã dựng xong hàng rào và một hecta lúa
mì đã được trồng nhưng không có mưa nên không một cây lúa nào mọc được, hoặc có
khả năng nẩy mầm được. Từ ngày đi đến giờ, anh Dave vẫn bặt vô âm tín. Bố nói chuyện với mẹ về anh.
-
Thằng vô lại bỏ đi đúng lúc
ta cần nó giúp đỡ. Bao nhiêu năm nay tôi quần quật làm để nuôi nó, vậy mà bà
xem, tôi nhận được sự trả ơn như vậy đấy ! Nhưng tôi cam đoan, dù thế nào nó
cũng vui mừng được trở về nhà.
Thời tiết vẫn khô hạn. Lúa mì không mọc
được và bố lại thất vọng.
Tuần nào ông chủ cửa hàng cũng đến nhắc
bố về lời hứa.
-
Hễ có là tôi mang trả ông
ngay, ông Rice ạ, bây giờ tôi biết làm sao? Không thể rút máu từ đá được.
-
Đến trà uống nước chúng tôi
cũng hết và bố nghĩ đến việc đòi ông Anderson tiền công ông làm hàng rào cho
nhà anh ta để mua ít trà, nhưng Anderson tỏ ý tiếc rằng chưa có, và hứa sẽ trả
khi bán được trấu. Mẹ nghe nói ông Anderson chưa trả mẹ khóc mà nói rằng trong
nhà không còn tí đường nào, và cũng chẳng có tí vải nào để vá quần áo cho các
con.
Chúng tôi không thể sống mà không có trà
uống nên bố bày cho mẹ cách làm ra loại chè mới. Bố nướng một khoanh bánh mì
cho đến khi cháy đen, sau đó đổ nước sôi vào và để cho nó ngấm. Bố nói nó có một
mùi thơm tuyệt vời, ông thích lắm.
Cái quần duy nhất mà anh Dave mặc đã
rách rồi, Joe thì không có cái áo khoác tàm tạm nào để đi chơi ngày chủ nhật.
Còn bố phải đi đôi ủng để buộc dây thép, và mẹ thì đau. Bố làm hết sức, giúp đỡ
mẹ, rồi chuyện trò, hy vọng về cảnh giàu có một ngày nào đó sẽ đến với chúng
tôi. Vậy mà có lần nói chuyện với anh Dave , bố thất vọng hẳn và thề có đấng tối
cao chứng giám, bố không biết phải làm gì nữa. Anh Dave không biết nói gì, anh
cũng buồn ủ rũ thấy cảnh nhà cửa chẳng ra sao cả.
Khi mẹ đau, bố phải dành hết thời gian để
chăm sóc mẹ, khi trong nhà hầu như chẳng còn gì, khi thực sự cảnh bần hàn đã
thường trực ở cửa thì anh Dave về, mang theo cả túi tiền và một gói dính dầu mỡ.
Bố vô cùng sung sướng, bắt tay mừng anh trở về. Và anh Dave nói về chuyện chăn
cừu, chăn ngựa. Nhiều lần anh khẩn khoản nói bố hãy đi xén lông cừu, cuộn thuốc
lá hoặc đóng dấu gia súc, làm bất cứ việc gì còn hơn là làm việc để chết đói
trong cảnh này.
Thế nhưng, Bố vẫn ở lại nông trại.
Nguồn:
http://www.telelib.com/authors/R/RuddSteele/prose/onourselection/ourselection04.html