Nguyễn Quyết Thắng - Minh Chiến • Virginia, 13.3.2013
Photo by Kayla Phạm
Khoảng vài phút sau khi
được chích mũi thuốc tê vào xương sống lưng, người y tá Hoà Lan có vóc dáng cao
lêu khêu của bệnh viện tỉnh Hoorn trở lại, lật tấm khăn trắng phủ kín đôi
chân và dí vào đùi tôi một cái lọ gì đó, nghiêng đầu hỏi tôi bằng ngôn ngữ Hoà
Lan:
- Anh thấy lạnh hay nóng ?
Tôi lắc đãu trả lời :
- Tôi không biết !
Thế là anh ta đẩy chiếc giường tôi
đang nằm từ bên ngoài vào giữa phòng mổ, một khung vải trắng mỗi bề rộng
một mét đặt chắn ngang trước bụng, cắt ngang tầm nhìn của tôi với công
việc họ đang làm dưới bàn chân, tôi chỉ cảm nhận được một chút mơ hồ
cái chân của tôi bị đẩy qua đẩy lại, tiếng lách cách phía sau tấm chắn . Mũi
thuốc đã làm tê dại nửa thân mình từ thắt lưng trở xuống, không cảm thấy đau
đớn, mặc dù vẫn tỉnh táo bình thường. Một lúc sau tấm vải chắn được lấy ra, tôi
vội rướn người nhìn xuống bàn chân, chỉ thấy một cuộn băng trắng quấn quanh to
tướng. Liếc nhìn người bác sĩ vừa làm xong nhiệm vụ, tôi nhoẻn miệng cười
ngượng ngạo bâng quơ. Ông ta bắt tay tôi và nói bằng tiếng Hòa Lan :
- Xong rồi, tất cả đều tốt, tốt.
Kể từ ngày đặt chân đến vùng đất đã cưu
mang tôi cho đến nay cũng đã được 4 tháng, mùa thu 1981 vội tàn nhanh để nhường
cho mùa đông sớm đến, cơn gió lạnh làm se lòng kẻ ly hương đơn lẻ nơi xứ lạ,
càng làm tăng thêm sự nhức buốt của bàn chân đầy thương tật, dấu tích một thời
xông pha lằn tên mũi đạn của thời thanh niên mới lớn. Ở nơi lạnh lẽo như thế
này vết thương cũ, cứ luôn làm tê nhức mà không thể nào xỏ chân vào đôi giầy
cho thêm ấm áp, qủa là trở ngại cho việc đi lại vô cùng. Rốt cuộc, tôi
cũng phải xin vào bệnh viện điều trị. Vị bác sĩ cho tôi biết không thể mổ
để lấy ra những mảnh kim loại đó được, vì nó nằm sâu ở những chỗ khó lấy và
nguy hiểm, vì thế chưa cần thiết để phải lấy ra, chỉ cần cắt bỏ cái bứu thần
kinh mọc lòi dưới mắt cá chân to bằng qủa nho. Chính cái múi thần kinh
này đón nhận cái buốt vào mùa lạnh và làm đau khi bị cọ xát lúc mang giầy.
Ngồi một mình trong căn nhà trống vắng nhìn
tuyết đổ ngoài cửa kính, đấy cũng là cái ngày đầu tiên tôi được ngắm tuyết rơi,
lòng bồi hồi thích thú tưởng tượng ra khung cảnh thần thoại, rồi lại
âu lo chuyện gì sẽ xẩy tới, lo xa khi tuyết rơi ngập tràn. Dưới ánh sáng
vàng vọt của ngọn đèn đường tỏ rõ những cụm tuyết trắng như bông goòng bay lượn
tứ phía, phủ ngập trên cỏ, trên cây, trên hàng rào, trên đường, tất cả trở
thành một mầu trắng toát, thật lạ lùng, êm đềm và huyền bí. Giá như giờ này có
các con của tôi bên cạnh, chúng sẽ thích lắm, tiếc thay vợ con tôi đang còn
ngược xuôi tìm nơi ẩn náu, tìm chỗ thoát thân nơi quê hương trầm luân đau khổ,
với bao ngày tháng ngậm đắng nuốt cay, vượt xa trốn chạy. Lòng bồi hồi nhớ nhà
khôn nguôi.
Vết mổ ban chiều làm đau nhức mặc dù
đã uống thuốc, sức ép của máu dồn xuống bàn chân càng làm buốt tê, gác chân lên
cao, hy vọng với tư thế này sẽ cảm thấy đỡ hơn, sự di chuyển phải nhờ đến chiếc
ghế, một chân quì đầu gối lên đó, chân còn lại bước từng bước và đẩy ghế theo,
giá có đôi nạng chống bây giờ thì đỡ biết bao? Lết tới quầy bếp, kiếm chút gì
lót bụng, ăn xong lò cò đến cầu thang, một chân bước, một chân qùi, rướn từng
bước lên phòng ngủ. Hạn chế việc đi lại, ngoại trừ việc chẳng đặng đừng, tôi
nằm chết dí trong góc phòng, gậm nhấm nỗi bực giọc, cố dỗ giấc ngủ cho chóng
qua, nhưng chúng cứ lởn vởn đùa giỡn lúc đến lúc đi, một đêm dài đầy mộng mỵ vô
đề .....
Tiếng chuông cửa bỗng vang lên làm
tôi tỉnh giấc, ánh nắng xuyên qua rèm cửa sổ chói chang, giờ hẳn đã qúa
trưa, tôi nghĩ thầm chắc người " Bạn Gia Đình " Hòa Lan đến thăm, vội
khoác áo, bò ra cửa, lết xuống cầu thang mở cửa. Thì ra là Nguyễn Đắc Trung và
Thúy Yên, cặp vợ chồng son, ghé chơi bất ngờ. Đứng một chân, tôi reo lên :
- Ah ! ông Trung , vô đây !.. vô đây bà Yên ! trời ơi !.. có lạnh không ?
ông bà đi đâu đây ?
- Ủa ! chân ông Thắng làm sao vậy ? Trung ngạc nhiên hỏi tôi .
Lò cò vài bước , quì một chân
trên ghế chân kia đẩy tới , tôi nói :
- Hi..hì... Không sao, mình mới vào nhà thương cắt bỏ cái bứu thần kinh ở chân,
vài bữa là hết đau à !
Tôi đánh trống lảng, cũng không muốn
nhắc và chẳng muốn kể nguyên nhân tại sao cái chân bị đau, cứ lò cò nhẩy qua
nhẩy lại , đẩy ghế tới, đẩy lui, nấu nước pha trà tiếp bạn, mặc dù bàn chân
hiện giờ còn sưng và bầm tím, hiện rõ qua những ngón chân lòì ra ngoài cuộn
băng, Trung và Yên lo lắng cho tình trạng của tôi hiện tại có một mình, không
thân nhân, không người giúp đỡ, và cả điện thoại liên lạc cũng không có,
Ông Thông- người thuê chung căn hộ với tôi thì không bao giờ có nhà. Yên hỏi :
- Rồi làm sao anh đi chợ nấu cơm ?
- Hì ..hì .. không cần ! ăn bánh mì hay mì gói cũng được mà, hồi nhỏ thì đã có
mẹ nuôi nấng, lớn hơn chút nữa thì đã có 4 đứa em gái thay phiên nấu ăn, đến
khi lập gia đình thì đã có vợ chăm sóc, tôi chỉ biết chiên trứng và làm mì gói
thôi, không biết nấu cơm ! ở đây lại có đồ hộp đóng sẵn, thịt nguội đầy rẫy,
bánh mì cả đống còn lo gì, ráng chờ ít bữa bà xã qua, lại ổn thôi !
Chuyện trò quanh co một chặp,
Trung nhìn vợ rồi quay qua tôi đề nghị :
- Hay là ông Thắng về nhà tụi tôi chơi vài bữa đi nhe ? thấy ông như vậy
thật không ổn chút nào, phải không Yên ? thật đấy! ông lấy vài thứ cần thiết,
rồi tôi chở ông về nhà tôi cho vui , đi ... đi ...
- Dạ ! Đi luôn bây giờ đi anh Thắng ! đâu ... anh cần lấy gì mang theo?
để em lấy cho... Yên phụ họa .
Không lý do gì để từ chối một
tấm tình qúi mến của bạn dành riêng cho mình, một ý nghĩ chân tình bộc phát
thành một hành động tự nhiên rơi đúng vào khoảng khắc hữu lý. Trong lúc
tôi đang thèm một mái ấm gia đình, đang cần một sự an ủi giúp đỡ .., thoáng
chút do dự, tôi đứng dậy trả lời :
- Ừ ! chúng mình đi nhe ?
Trên chiếc xe đạp cọc
cạch, mua lại của Ty Cảnh Sát địa phương, Trung chở tôi phía sau, Yên đèo cái
túi "Care" tôi nhận hồi còn ở trại tỵ nạn, trong đựng bộ quần áo, vài
thứ lặt vặt. Con đường trơn trợt vì tuyết, lạnh lẽo vì gió, Trung đã chở tôi
suốt gần 7 km, miệng luôn hỏi thăm, kể chuyện, và mắt luôn cầm chừng bóng xe
của vợ đạp theo bên cạnh.
Ở nhà Trung-Yên, tôi được
săn sóc kỹ lưỡng từ bữa ăn cho đến giấc ngủ, Trung và Yên là bạn cùng tầu vượt
biển, cùng định cư tại Hòa Lan một ngày. Căn nhà của Trung cũng thiếu thốn
nhiều phương tiện như nhà của tôi, nhưng tình bằng hữu thì thật dư thừa. Yên ít
nói, ngược lại Trung nói khá nhiều, chuyện vui chuyện tếu cười đùa ha hả, hết
chuyện thời sự rồi quay qua kiếm hiệp, Trung có thể kể chuyện Kim Dung cả ngày
và nhớ vanh vách câu chuyện như vừa học thuộc lòng. Nằm đây, cũng một góc
phòng, cũng một lớp chăn mà lòng ấm áp chi lạ, niềm cảm xúc trong mái ấm gia
đình, vởi tình bằng hữu thân thương tạo sự rung cảm lắng đọng trong tâm hồn. Sự
săn sóc chân tình của Trung-Yên dành cho tôi giống như một bổn phận, và tôi tận
hưởng hạnh phúc đó, tự nhiên như một điều ắt có, không ngại ngùng, không khách
sáo.
Trong bóng mờ ảo của
chiếc đèn ngủ phản chiếu từng khoảng sáng tối trên trần nhà, tạo thành những
hình tượng gợi nhớ lại khoảng thời gian nờm nợp những tai ương, mà ban
chiều vô tình Yên đã vừa nhắc đến:
- Tại sao chân anh lại phải giải phẫu vậy hả ?
Tôi trả lời :
- Ồ ! cái chân hay giở chứng, khi nào có dịp tôi sẽ kể cho nghe !
Đã từ lâu tôi
chẳng hề nhắc đến vết thương cũ ( Có cần để phải nhắc nhớ đến nó không
? ), thường khi người ta sống trong hạnh phúc mới nhớ những mảnh cơ hàn
trong qúa khứ, không ai trong lúc lao đao hôm nay, lại nhớ đến kỷ
niệm lận đận ngày hôm qua. Trong giờ phút chăn ấm nệm êm, trong tình nồng bằng
hữu, nơi xứ lạ quê người đã dang tay chào đón. Ngoài kia tuyết có rơi thì cái
rét lạnh cũng không bằng những đêm dương mắt sáng, nằm chờ địch giữa rừng thưa
sương phủ, lòng dặn lòng đó là nhiệm vụ phải bảo vệ quê hương, mong một ngày
hết lầm than đau khổ bởi chiến tranh. Nhưng không ngờ, những người con mà thế
hệ cha anh đã đặt niềm tin mai sau sẽ là tương lai của đất nước, đã phải băng
rừng vượt biển rời bỏ tổ tiên tìm một chốn nương thân, cách xa nơi chôn nhau
cắt rốn hằng vạn cây số, lòng bồi hồi chợt thức ....
*
1969 một ngày
mưa không dứt, sau cuộc hành quân lùng giặc trên vùng cao nguyên Darlac,
chiếc GMC đưa đơn vị chúng tôi trên đường trở về căn cứ đóng tại ngọn đồi Chư
Cúc cây số 52, nằm giữa Khánh Dương và thành phô Banmêthuột. Gần đến chân
đồi, chúng tôi được tiểu đội Thám Báo cho biết đêm nay du kích quân dự
định phá hoại chiếc cầu 52, lệnh của Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 bổ nhiệm đại đội
Thám Kích truy lùng và tiêu diệt du kích quân đó. Thế là cả Đại Đội 411 Thám
Kích chúng tôi nhẩy xuống xe đi ngược trở lại, phân chia địa điểm chiếm cứ, mỗi
toán 4 người nằm rải rác dọc theo quốc lộ 21, toán của tôi nhằm ngay tọa độ cách
chân cầu khoảng 20 mét. Lúc nẫy xe băng qua cầu, mưa như trút nước, gió lồng
lộng thổi mạnh, hất tung cái mũ rừng của tôi xuống đất, giữa đám bùn lầy ven
đường mất dấu. Thật là bực mình, giờ phải đi kích giữa cơn giông gió trong rừng
khuya, thật là trở ngại. Chiếc xe jeep của Bộ Chỉ Huy hậu cứ chạy trờ tới ngang
qua, tôi vẫy gọi và thò tay gỡ cái nón sắt của Lang, một Hạ Sĩ Quan truyền tin
đang đội :
- Cho mượn cái mũ, mai trả nhe ? cảm phiền !.
Chiếc xe jeep tiếp tục chạy thẳng về đồi Chư Cúc cách đó không xa .
Từ khi ra khỏi quân trường, về phục vụ trực tiếp tại đơn vị
này, tôi ít khi đội nón sắt, ngoại trừ quân lễ, chiếc nón nặng nề, xục
xịch qua lại thật khó chịu, đối với cái đầu "thư sinh" của tôi, tôi
chỉ thích đội cái mũ rừng ngắn vành rằn ri mầu đen xám, vừa nhẹ, vừa oai (
thiệt... là tình ). Đến tọa độ phục kích, tôi thấy một đống củi tro dưới đất,
chắc chắn ban chiều quân ta đã đóng chốt và nấu cơm tại đây, phía trước
là một rãnh nước, phía sau là rừng tre rậm rạp không có lối thoát, đây không
phải là chỗ tốt và an toàn để phục kích. Chúng tôi quyết định dời địa điểm qua
phía bên kia cầu, nơi có một tàn cây thấp, chung quanh cỏ lau mọc cao, từ đây
qua đó chỉ mất khoảng đôi phút, nhưng chúng tôi đã phải đi lòng vòng ra xa để
đánh lạc hướng, đi từ lúc chập choạng cho đến tối xẫm mới mò được đến địa điểm
qui định, phải khom lưng, gập người, quỳ-bò-trườn đến chỗ lùm cây. Bốn người
ngồi đối lưng quay về bốn hướng, mở mắt cho to nhìn vào bóng tối, tai vểnh cho
rõ lắng nghe gió lộng hoang vu, về khuya luân phiên nhau mỗi người ngủ một giờ
lấy sức.
Trong đêm thâu, nước mưa ướt lạnh
luồn qua poncho nhớp nháp, tay ghì khẩu súng M16 đạn đã lên nòng, bên hông khẩu
Colt 45 cũng đã mở chốt khóa. Ngồi - quì - rồi nằm, càng lúc càng thấm mệt, Nằm
chờ giặc mà chỉ mong giặc đừng ra, tâm trí mơ tưởng hình bóng người yêu, trong
tà áo xanh đồng phục, thướt tha trước cổng trường chờ tôi đến đón. Tuổi mới lớn
với tình yêu đầu đời, xa nhau một ngày là nhớ thương một trời, lòng ước mong
mau trở về bên em. Lời vị chỉ huy trước giờ hành quân, vẫn luôn chúc tụng tất
cả binh sĩ "đi được bình an, về được bình yên"... Hễ đụng trận là có
máu đổ - thịt rơi, là có chết chóc, ta muốn tiêu diệt địch, và địch muốn loại
trừ ta, câu hỏi được đặt ra: ai sẽ là kẻ may mắn sống sót trở về?... Những đêm
ngồi trên đồi Chư Cúc nhìn về hướng thành phố Banmê xa xa, nơi có cha mẹ, các
em và cả người yêu đang say tròn giấc điệp, đêm nay mong đừng có đạn súng cối
của cộng quân dội về phá rối giấc ngủ mọi người. Chắp tay nguyện cầu cho tất
cả luôn được yên vui, đầm ấm.
Đêm dài mệt mỏi dần trôi qua,
cây cỏ vẫn yên bình ấp ủ mùi đất ẩm, ánh mặt trời không xuyên nổi lớp sương mù
mờ đục buổi sáng, chúng tôi nhìn nhau không nói một lời, ngồi yên cho đến khi
sáng tỏ mặt người, cho đến khi nghe những tiếng xe đò hành khách, bắt đầu
chạy ngang trên đường như thường lệ mới yên tâm. Xế trưa, tôi men theo bờ
cỏ đến bên chiếc cầu, tìm lại cái mũ gió thổi rớt chiều qua, mang xuống suối vò
giặt đất cát, rồi lững thững đi lên, lẩn về chỗ cũ, phơi mũ trên đầu bụi cỏ, và
ở đó đến chiều chờ lệnh mới...
Nghe máy gọi rút quân về,
chúng tôi kéo nhau ra lề đường đón xe, chiếc GMC gom từng toán rải rác bên
đường, đang từ từ dừng lại cho chúng tôi leo lên, đã có 2 toán ngồi trên xe,
thêm chúng tôi nữa là 12 người, còn vài toán nữa đang chờ phía trước, chiếc xe
jeep truyền tin cũng đang chạy theo phía sau. Cởi cái ba lô ra, ngồi xuống
băng ghế bên hông xe, tôi vén tay áo nhìn đồng hồ, " 5 giờ chiều
" thầm nghĩ : "Tới giờ Minh Chiến tan trường rồi."
giơ tay sửa cái nón sắt đội trên đầu, thì bỗng :
- " Đùng ... " một tiếng nổ kinh thiên động địa, ngay bên
cạnh. " Đùng... " tiếng thứ hai liền
theo .
Xe đã bị đột kích, 2 trái
B-40 gần vệ đường bay về chúng tôi, đạn trúng vào thành xe nổ chát chúa,
tiếng nổ đã làm bùng điếc tai, buốt nhói lên óc. Trái thứ hai trúng vào phía
sau, nhưng tôi không còn nghe rõ nữa. Giữa khói và lửa mầu vàng trắng cuồn
cuộn, tôi bật dậy, phản ứng tự nhiên là phủi lửa , lửa xung quanh, lửa trên
đầu, lửa dưới chân.. không còn nhìn thấy gì ngoài ánh sáng của lửa. Liền sau đó
có 3 tia chớp lóe lên, tia sáng của những trái lựu đạn mà người lính đeo trên
mình, đã bị B40 bắn trúng, trong quay cuồng tíc tắc đó, tôi cảm thấy dường như
có vật gì đập mạnh vào gang bàn chân bên phải, chắc vì tiếng nổ dội mạnh làm
thốn chân mà thôi ? tôi nghĩ thế. Tất cả diễn ra chỉ trong khỏang khắc mươi
giây rồi vụt tắt. Sức công phá của B40 dường như không mạnh như tôi từng nghĩ,
có lẽ vì trúng vật cản qúa mềm bằng xương thịt chăng? bình thường sự công phá
của nó có thể xuyên thủng xe tăng. Chiếc GMC khựng lại làm tôi chúi ra sau, có
lẽ người tài xế đã nhẩy ra khỏi xe? xoay mình dự định cũng nhẩy xuống để
tìm chỗ ẩn nấp, nhưng cái chân như bất động. Chung quanh không thấy ai nhúc
nhích, họ nằm im đó sống hay là đã chết, tôi chưa biết rõ, việc điều đầu tiên
là phải nhặt lại khẩu súng M16 vừa buông rơi, cây súng giờ đã bị vỡ báng và
nòng súng cong cong. Tôi thoáng nghĩ : "Thế nào VC cũng sẽ còn tiếp
tục tấn công nữa", nên từ từ ngả người trên băng ghế, thò tay rút cây Colt
45 bên hông lên đạn để phòng thân, cái cơ bẩm cứng ngắc không thể nào kéo lên
được, cũng có thể vì bàn tay dính đầy máu. Nghiêng đầu nhìn lại sàn xe,
xác đồng đội nằm phanh thây ngổn ngang bên nhau, họ chết không kịp rên la,
không kịp gào thét, không kịp biết mình đã chết, trái đạn bất ngờ đã biến thây
người thành những mảnh vụn tan tác tung bay...
Chiếc xe bỗng rướn lên rồi phóng về
phía trước, xác một người lính co quắp tay chân, lưng còn dính chiếc máy truyền
tin PRC25 vỡ nát bị hất văng ra ngoài, là Toản. Phản ứng tự nhiên tôi giơ tay
chụp lại, bàn tay nắm trúng vào giữa khoảng ngực trắng của thịt và bầy nhầy của
máu, cổ và đầu đã bay đi mất, tôi kéo mạnh xác Toản, hất vào lòng xe. Phía góc
cuối còn một người ngồi dựa lưng vào bửng sau, mắt trừng trừng nhìn tôi, toàn
thân run rẩy bần bật vì đau đớn, cánh tay phải để trên đầu gối, nhưng bàn
tay đã bị cụt mất, từ trên khuỷu trở xuống chỉ còn lại những sợi gân lòng thòng
dính vào những đốt ngón tay lủng lẳng, đó là Y-Dhuyn một người lính Thượng
gốc Ede . Tôi không còn nghe một tiếng động nào, kể cả tiếng máy xe. Vì tiếng
nổ qúa lớn của trái đạn đầu tiên, sức ép qúa mạnh đã làm tôi bị điếc. Sờ cánh
tay phải, rồi lần qua tay trái, xem mình có bị thương không ? Rờ xuống
đùi phải , qua đùi trái thấy vẫn còn nguyên. Thắc mắc về cái nón sắt vừa đội
lên đầu, giờ lại nằm ngửa hứng đầy máu mủ từ lúc nào ? vành đai bên trong mũ
còn đọc được chữ Lang, tên của chủ nhân mà tôi đã mượn chiều qua, lo lắng đưa
tay sờ đầu, vuốt mặt, vuốt đến đâu chỉ thấy toàn máu và thịt bầy nhầy đến đó,
thất kinh hồn vía. Thôi rồi ! còn gì cái mặt nữa?, tôi nằm im không đụng tới
nữa. Mùi thịt cháy trộn mùi thuốc đạn đắp lên thân thể tôi, bốc lên
tanh tanh, nhờn nhợn, khét lẹt.
Xe tiếp tục nhắm hướng Chư Cúc chạy về, cũng may
người tài xế không bị thương, và chiếc xe không bị hỏng, bằng không, chẳng biết
chuyện gì sẽ còn xẩy ra nữa. Chạy một đoạn thì thấy đạn pháo binh trên đồi bắn
xuống xối xả, quanh chỗ chúng tôi vừa bị phản kích, các toán trong đon vị còn ở
lại dọc đường cũng tấn công lên. Xác 3 đặc công công sản đã tìm thấy, cũng tan
xương nát thịt bên bờ khe nước chẩy. Có lẽ những đặc công này đự định giật xập
cầu, nhưng đã phát hiện âm mưu của mình bị bại lộ, và không biết chúng tôi đang
phục kích chỗ nào? tiến thoái lưỡng nan đành nằm im một chỗ, không ngờ hôm sau,
nhân cơ hội thấy sự sơ hở của chúng tôi trong lúc rút quân, nên đã bắn tới đúng
lúc.
Xe chạy vòng quanh lên đỉnh dốc Chư Cúc,
nhiều người lính đứng bên sườn đồi trố mắt nhìn xem, thoáng thấy bóng
dáng ai như Tuấn, người học cùng khóa, có lẽ hắn không nhận ra tôi. Ngày mãn
khóa, Tuấn xin được phục vụ ở Đà Nẵng nơi quê nhà, nhưng sao giờ lại hiện diện
nơi đây? Xe chạy thẳng đến chỗ sân đậu trực thăng thì dừng lại. Ở đây
còn có cả đơn vị Pháo Binh, Thiết Giáp, và phi đội Trực Thăng của Mỹ đóng quân.
Nhiều người lính nhào tới khiêng xác xuống, một người cõng tôi đặt vào băng ca
dưới đất, nhiều người lính bu lại hỏi han, bỗng một anh đội mũ beret đen thuộc
binh chủng Thiết Giáp chen vào, vồn vã hỏi những câu gì mà tôi không rõ, mặc dù
trời đã nhá nhem, nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Châu. Lại thêm một ngạc nhiên
nữa, không ngờ giữa chốn nhỏ bé này lại gặp hắn. Châu đẩy những người chung
quanh dạt ra, nhào vào cởi dây lưng quần tôi cho lỏng ra, tìm kiếm những vết
thương khắp người từ đầu xuống chân. Do quần áo dính bê bết máu
thịt nhớp nháp, hắn rút lưỡi lê bên sườn của tôi rọc khuy áo
tung ra, rọc luôn ống quần, thọc mũi dao vào dây giầy dựt đứt tung ra.
Châu nói điều gì đó, tôi ra hiệu không nghe rõ, hắn giơ cao chiếc giầy cho tôi
thấy và đổ ra một dòng máu thắm đỏ tươi, tôi đã bị thương ở chân. Hắn rút trong
balô vài tấm compress tẩm thuốc xát trùng, vội vã thoa khắp người tôi, lau đến
đâu hắn ra hiệu chỉ chỏ cho biết, đó là chỗ bị thương, Hắn chăm sóc cho tôi một
cách thản nhiên, nhanh nhẹn như y-tá chuyên nghiệp. Lòng tôi bỗng trùng xuống
nhớ lại hình ảnh trước đây 2 năm, lần ghé ngang trường Trung Học Bồ Đề
Banmethuột, chợt thấy đám đông học sinh đang bu quanh 2 kẻ đang đánh nhau tuổi
nhỏ hơn tôi chừng 1-2 tuổi. Tôi nhẩy vào can 2 trò ra, một trò la lớn:
- Thằng Châu ăn hiếp em, thăng Châu tự nhiên đánh em, nó bắt nạt em .
Thì ra đây là Châu
"Đầu Đạn", có lần tôi đã nghe người ta kể rằng Châu là thằng du đãng
hay bắt nạt kẻ cô thế, định bụng chỉ nói vài lời nhỏ nhẹ can ngăn 2 kẻ thôi
đánh nhau, chứ không muốn làm lớn chuyện, nhưng không ngờ thấy Châu dường
như chùn lại, không còn hung hăng nữa, hắn lùi dần vào sát bờ tường đứng yên
chịu trận. Tôi được nước tiến đến, thấy trên cổ có đeo sợi dây chuyền, gắn lủng
lẳng viên đạn đồng Garang, tôi dùng ngón tay gõ gõ vào đầu viên đạn và nói :
- Không lo học chỉ ham đánh nhau, bắt nạt người ta, một lần nữa thì biết tay
nghe ? dẹp cái đầu đạn này đi, biết không ?
Hắn lặng im không nói, mắt
chằm chằm nhìn tôi toé lửa. Không phải hắn sợ tôi, mà hắn sợ thằng Tây
*thẹo" bạn tôi, tay " hảo hớn " luôn bênh vực tôi mà hắn đã đụng
độ một lần, hắn sợ những người bạn lính tôi quen, sợ thầy cô các trường lớp mà
tôi thường lui tới sinh hoạt, dậy hát. Có lẽ hắn cũng đã biết tôi với biệt danh
"Thắng Sữa" thư sinh trói gà không chặt, nhưng tôi có một "hậu
thuẫn" khá lớn, mà hắn đành phải dè mặt. Không ngờ hôm nay gặp lại
nhau trong một hoàn cảnh khác và với một hành xử khác, tôi nắm tay Châu mấp máy
đôi môi tỏ lời cám ơn...
Một quân nhân phụ tá trực
thăng người Mỹ nhấc bổng tôi lên, đặt ngồi dựa lưng vào hai chiếc băng ca gắn
chồng lên nhau trên trực thăng, Y-Dhuyn cụt tay nằm im thiêm
thiếp phía dưới , tôi lắc vai định hỏi, mới thấy những vòng băng
trắng quấn quanh ngang bụng máu ra ướt đẫm, anh còn bị lủng bụng đứt cả ruột.
Y-Kron nằm băng ca phía trên bất động, một mảnh đạn to bằng hạt gạo văng trúng
đầu ngay giữa đường ngôi bên thái dương, óc trộn máu ứa ra từng lọn theo từng
nhịp thở, tôi đoán chắc anh sẽ chết trước khi trực thăng hạ cánh.
Tôi được chở thẳng đến Bệnh Viện Dã Chiến
Banmethuột cấp cứu, khám nghiệm và lập hồ sơ, họ gắn lên tôi một bình nước
biển, dùng một loại thuốc sát trùng sủi bọt trắng như xà bông chà phết
lên thân thể tôi, những chỗ bị thương máu rịn ra thấy rõ dưới lớp bọt
trắng, suốt từ vai trái xuống đến chân, là những mảnh nhỏ của B40 rải khắp, như
nắm cát tung vào người tôi, lỗ chỗ không thể đếm được là bao nhiêu. Một mảnh
lớn bay ngang mông đùi, cắt mất đi một khoảng da thịt to bằng miệng chén,
mảnh khác nằm sâu trong bắp chân, tạo thành một lỗ hổng sâu hoắm to bằng đầu
ngón tay. Một mảnh lớn bay ngang lưng, rạch một đường từ trái qua phải, nếu
mảnh đạn vào sâu chút nữa thì xương sống của tôi đã bị đứt làm 2 đoạn, sẽ tàn
tật và ngồi xe lăn suốt đời, ( có thể ngồi xe lăn được không ?). Thêm một
mảnh hiểm nghèo nữa sớt ngang sau ót, giá như chỉ vào sâu thêm 1 cm nữa thì gân
và xương cổ cũng đứt đôi và tôi đã chết ( liệu có chết được không ?). Phía mắt
cá của bàn chân phải, bị cả chùm mảnh lựu đạn tạt vào, lúc ban
đầu chỉ thấy hơi thốn, giờ thì hoàn toàn tê dại, không thể dùng đến nó
được nữa, 3 trái lựu đạn mà những người lính đã đeo bên mình, đã bị
2 trái B40 bắn trúng, phá hư thìa an toàn khiến lựu đạn phát nổ, vô tình nó đã
tiếp tay với giặc giết hại vài đồng đội của mình, nếu nó nổ gần hơn chút nữa,
và không được bao bọc bởi thân xác người lính chung quanh, thì bàn chân của tôi
cũng nát bấy chẳng còn nguyên vẹn. Nhóc Toản đeo sau lưng chiếc máy truyền tin
PRC25 thường cận kề bên tôi, đã hứng tất cả mảnh đạn thay cho tôi, chiếc
máy bể nát và thân hình không còn toàn vẹn, thương cho anh người trai trẻ
yêu đời mới 18 tuổi, thích hát cải lương. Đầu ngón tay trỏ bấm đàn guitar
của tôi, gìờ cũng bị bung ra như nụ hoa huệ, cái móng tay thì đã bay đâu
mất. Còn nữa, tiếng nổ chát chúa cận kề của trái pháo đã làm rách màng nhĩ tai
trái, hệ thống thính giác bị dập vỡ, một dòng máu đỏ ứa ra, tôi đã bị điếc một
bên, còn tai kia bị ù đi, không còn nghe một âm thanh nào cả, mãi
cho đến cả tháng sau mới bắt đầu nghe được, với những âm thanh lệch lạc không
định hướng. Từng mảnh thịt vụn và óc cháy đen khét lẹt, quấn chặt vào lọn tóc,
quyện xát vào da đầu, tạo lên mùi tanh tưởi nhờn nhợn, khiến tôi muốn nôn oẹ
khi nghĩ đến. Sau này Minh Chiến đã dùng alcool cặm cụi vuốt từng lọn tóc, đôi
khi phải cắt bỏ từng chùm, để làm sạch. Riêng cái mùi khét đó vẫn theo ám ảnh
tôi đến cả năm sau.
Nằm trong phòng tiếp nhận cùng
với nhiều thương binh khác ở các nơi đưa về, suốt đêm tôi không ngủ được vì vết
thương hành hạ, máu cứ rỉ ra làm tâm hồn bất an. Thêm vào đó, những tiếng
gào thét đau đớn của vài người chung quanh, càng làm tinh thần tôi xao động...
Nhờ Ban Tiếp Nhận thông báo cho chú tôi ở Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu biết tin, chú tôi
đã vội vã chạy vào, mang theo cả chăn mền, quần áo ấm, bố mẹ tôi chắc
cũng đã biết tin, hẳn không ai ngủ được vì lo lắng cũng giống như tôi, mong sao
cho trời mau sáng để được gặp lại nhau.
Ước muốn xóa tan đi nỗi ám ảnh
thê lương của đêm dài tối ám, nằm buồn nghĩ đến hoạt cảnh vừa qua, nghĩ
đến tương lai cùng nỗi buồn thân phận, một nỗi buồn mông lung và sâu thẳm. Mười
hai người ?.. hừm !! mười hai người chỉ còn mình tôi tương đối được toàn vẹn,
thằng Y-Dhuyn cụt tay lủng ruột đưa vào phòng cấp cứu có qua khỏi đêm nay không
? hay cũng cùng chung số phận với 10 người vắn số kia? Kể từ nay thằng Y-Kron
không cần năn nỉ xin nghỉ thêm vài ngày phép để về chơi với con vừa chào đời
nữa. Nhớ ngày được vợ cưới xong lại phải quay về đơn
vị, vợ Y-Kron sướt mướt năn nỉ xin được theo chồng cùng ra ở
ngoài tiền đồn (dân tộc thiểu số còn giữ phong tục mẫu hệ, đàn bà đi cưới
chồng)... Tôi không còn được ăn những miếng thịt kỳ đà, thịt khỉ, cheo, mà mỗi
lần săn được mồi, Tám luôn nhớ để phần riêng cho tôi trong loong Guigoz..
Không còn được ăn bát canh ngon nấu bằng tổ kiến lửa có vị chua ngọt, và nồi
kho đọt cây mây rừng đắng nghét của Y-NangPac.. Không còn nghe nhóc Toản lải
nhải hát cải lương "Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài"... Và ông Nhài khó
tánh, lúc nào cũng cằn nhằn không hài lòng với bất cứ chuyện gì... Giờ tất cả
cũng đều im hơi lặng tiếng, tất cả đã vào thinh không, đã thay tâm đổi tính ..
ít nói, đã đổi hướng đi. Giả dụ như mảnh đạn đi sâu hơn một chút nữa qua cần cổ
của tôi, thì giờ này tôi cũng như họ, nằm xuôi tay gói kín trong mảnh poncho
tối tăm kia, gói kín niềm đau vết thương tuôn trào máu đỏ của cha, thịt hồng
của mẹ, gói kín kỷ niệm gamen cơm chan đầy nước mưa thay canh rau rừng lạt
phách, gói kín lời dự định tỏ tình ước mong ngày cưới mau đến cùng Minh
Chiến.
Này bạn! những chiến hữu trẻ của tôi ơi !
tôi cũng cùng một thời khắc, một hoàn cảnh mất mát như các bạn thôi, chỉ khác
một chút là tôi còn nhúc nhích cục cựa, còn các bạn thì không! vậy xin hỏi các
bạn có cần tôi giúp điều gì ? nói điều gì cho các bạn?
- Đưa thẻ bài cho gia đình biết tin nhé ? Phải nói sao đây lời an ủi ? khi vợ
con cầm " đồng tiền tử " trên tay tuôn trào nước mắt ?
- Có bất mãn hay hài lòng ? có tủi hờn hay hãnh diện khi đã hy sinh cho tổ quốc,
được Tổ Quốc Ghi Ơn ?
- Có mãn nguyện hay tiếc nuối ? mang căm thù hay tha thứ cho bọn cộng phỉ tàn
ác ?
- Ừ ! bọn nó cũng đã chết phanh thây rồi đấy ? - Hãy nói đi ! Ý bạn thế nào ? -
Phải làm gì bây giờ ? - Sao lại lặng im như thế ?
- À ! mà cũng phải ! Hỏi: là đã sai , mà Trả Lời: lại
càng sai hơn nữa.
Cuộc chiến thì qúa dài và đời
lính của tôi lại qúa ngắn. Xung phong đầu quân theo tiếng gọi của non sông,
tưởng rằng sẽ được góp phần mau chóng dẹp tan nạn cộng sản, mong có một
nền hoà bình vĩnh viễn nơi quê nhà, nào ngờ lại bị loại khỏi vòng chiến một
cách lãng nhách, vô duyên, một điều không mong tưởng. Đi hành quân, đi chiếm
mục tiêu, mở đường, phục kích, mong đối diện quân thù để chiến đấu một phen
thật hào hùng, Nào ngờ phục kích giặc lại bị lọt kích giặc, tôi thẹn thùng
với chúng bạn, thẹn với chàng Khánh Bộ Binh, thẹn với thằng Hoàng, thằng Khoa
Thiết Giáp, thẹn với Tấn Lôi Hổ, thằng Tây "Thẹo" Hải Quân, và cả đứa
em đăng lính Nhẩy Dù lúc tuổi chưa đầy 18. Tất cả cùng bỏ trường bỏ lớp, xung
phong đầu quân sau Tết Mậu Thân ngập tràn khói lửa...
Sáng hôm sau, xe chở tôi về Quân Y Viện Sư Đoàn
23. Nằm trên băng ca được khiêng vào bệnh xá, tôi đã thấy dáng mẹ, cùng
người yêu nhỏ bé đứng chờ trước cửa, tất cả mừng rỡ khi thấy tôi xua tay ra
hiệu : " không có sao ! ".
Mọi người cùng uà vào phòng, kể từ hôm đó Minh Chiến bỗng trở thành y-tá
riêng săn sóc đặc biệt cho tôi, không quản ngại giờ giấc. Hai cánh chân của tôi
đều bị băng bó, di chuyển thật khó khăn, mãi 2 tuần sau tôi mới đi bằng nạng gỗ
một mình được, chịu trách nhiệm chăm sóc cho thương binh trong phòng tôi là bác
sĩ Đại Úy Phạm Văn Phu và anh Ngô Đình Vân, Hạ Sĩ Quan Y tá, tận tâm chăn sóc ,
nên tôi chóng bình phục . Người duy nhất của đơn vị đến thăm tôi trong Quân Y
Viện là Thượng Sĩ già Trần Văn Khuy ban hậu cần, ông trao cho tôi tiền
lương trong tháng, và cho biết cả đơn vị đã lên đường qua Hạ Lào. Ông Khuy là
người hay kể và khoe với tôi về đứa con gái yêu qúi của ông đang còn ngồi trong
trường Trung Học, ý ông mong muốn tôi sẽ là con rể của ông trong tương lai....
Thời gian thấm thoát trôi qua gần
một năm, tôi ra trình diện Hội Đồng Giám Định Y Khoa tại Quân Y Viện
Banmethuột, nơi đây hiện diện khoảng ba chục thương phế binh, Bác Sĩ Hội Đồng
Giám Định gồm có Thiếu Tá Lạng, Đại Úy Phu và một Đại Úy khác tôi không nhớ
tên, họ kêu tên từng người, đọc lý lịch hồ sơ bệnh án, xem xét từng vết thương
và đưa ý kiến quyết định :
-Thương binh... số quân... cấp bậc ... đơn vi ... nhập ngũ ngày ... bị thương
ngày ... hoàn cảnh thương tật hiện tại ... đề nghị : thương phế
binh loại 2.
- Loại 2 .
- Đồng ý loại 2, anh có thắc mắc hay khiếu nại gì không ??...
Tôi chống nạng, cầm giấy
quyết định về trình diện Trung Tâm Giải Ngũ Quân Khu 2 tại Nha Trang để lập thẻ
Thương Phế Binh và nhận hồ sơ giải ngũ. Thương Phế Binh loại 2, loại tàn phế
nhẹ có thể tự sinh sống, không được nhận sự cấp dưỡng tàn phế nào khác.
Tôi đi tìm một công việc để
sinh nhai và lập cuộc sống mới, xin làm thư ký hành chánh cho một công ty xuất
nhập cảng gỗ tại Nhơn Cơ - Quảng Đức. Tình cờ một hôm vào thị xã Gia Nghĩa -
Quảng Đức, gặp lại 2 người lính trước kia cùng trong đại đội Thám Kích 411 cũ
với tôi, nay lại chuyển qua phục vụ trong nghành truyền tin của Địa Phương
Quân. Vượng và Toàn rưng rưng kể lại rằng : sau khi tôi bị thương cùng một số
chiến hữu tử trận bên đồi Chư Cúc, đơn vị tôi được điều động xát nhập cùng 2
đại đội Thám Kích khác qua chiến đấu tại vùng Hạ Lào, đa số trong đơn vị đã
chết trong những cuộc giao tranh khốc liệt, một số tử nạn vì phi cơ trực thăng
tiếp cứu đã bị rớt trên đường trở về, quân số còn lại qúa ít không đủ tái lập
đơn vị, cho nên họ đã được thuyên chuyển qua những nghành hoặc đơn vị chủ lực
khác, Đại Đội 411 Thám Kích bị xóa tên kể từ ngày đó.
Tôi bôi hồi xúc động, từng khuôn mặt
hiện ra trong trí, điểm danh từng người, từ trái qua phải từ trước ra sau dường
như còn thuộc lòng không xót ai. Những khuôn mặt tuổi từ 18 cho đến 40, luôn
rạng rỡ khi được tôi dậy hát những bài ca hùng tráng. Thích thú cười đùa khi
tôi dậy bài "Qua Cầu Gió Bay" - "Lý Khỉ Đột". Tôi thấy tôi
cũng đã chết theo mọi người trong đơn vị, tự dặn lòng từ nay lặng câm, sẽ không
nhắc đến nữa, cuộc đời binh nghiệp của tôi tan tành sau tiếng nổ đầu tiên. Giờ
đây tôi không còn được tiếp tục chiến đấu trực tiếp bằng súng đạn cho quê
hương nữa. Có chăng chỉ bằng lời ca tiếng hát đánh thức lương tâm con
người. Họa chăng chỉ bằng tiếng đàn khuấy lên, xóa tan đi bạo lực, hận thù, và
tủi nhục...
Sau bao ngày tháng,
những mảnh đạn như những hạt cát nhỏ trên thân thể đần dần lồi lên mặt da, tôi
có thể tự nậy, cào, bấm, nặn ra trong những lần đi tắm, mong gột sạch đi tất
cả, nhưng bàn chân phải vẫn luôn tê buốt, xưng to - bầm tím, tôi phải dùng
những cuộn compress quấn chặt lại, giống như Hoàng Hậu bên Tầu với lệ bó chân
cổ xưa, hy vọng nó sẽ nhỏ lại để đi lọt đôi giầy. Tôi phải chịu điếc một bên
tai, những âm thanh như tiếng ve kêu, mưa đổ suốt ngày đêm không bao giờ dứt.
Những mảnh lựu đạn vẫn còn nguyên đó, thỉnh thoảng nó lại hành hạ tôi mỗi khi
trở trời, giá buốt. Nhưng nỗi đau ở vết thương nơi bàn chân vẫn không thể so
sánh với nỗi đau trong tâm hồn, nó nằm đó, dồn nén, chờ đợi...
Giữa chốn bình yên
và dạt dào hạnh phúc của mảnh đất Hòa Lan nhỏ bé đã cưu mang một đời sống mới
an lành, đầy ắp tình yêu của nhân loại, tình đồng hương , tình bằng hữu và của
tình đầm ấm gia đình. Để tưởng nhớ một thời trai trẻ trong chiến tranh tương
tàn, của một quê hương ngàn đời đau khổ, cay đắng và mất mát qúa nhiều mà giờ
đây vẫn còn tiếp diễn thương đau. Để gởi đến những khuôn mặt, những tên
gọi trong phạm vi bài viết này, một lời cám ơn nồng nàn trìu mến:
- Nguyễn Đắc Trung và Lê Thị Thúy Yên : Đa tạ tình bạn thanh tao,
những chén cơm mặn nồng, một chỗ nằm đầm ấm và để trả lời một câu hỏi đã hứa sẽ
trả lời từ năm 1981.
- Minh Chiến : Đã săn sóc và giúp đỡ suốt thời gian nhập viện 1969, trong những
hoàn cảnh thật khó khăn, nhưng đậm đà quyến luyến, yêu thương.
- Ngô Đình Vân : Hạ Sĩ Quan Quân Y Viện BMT : Đã tận tâm săn sóc vết thương của
tôi cho đến ngày xuất viện .
- Vương Quốc Hòa Lan : Hồi phục quyền làm người trong đất nước tự do, nhân bản
thật sự. Sau những ca mổ đã giúp tôi nghe rõ lời thì thầm của cỏ cây, âm thanh
của suối-đá và nhịp đập của trái tim... Và nay mang được " Đôi Hia Bẩy Dặm
" để vượt qua miền sa mạc Sahara nóng bỏng , leo lên đỉnh tuyết trắng
Zermatt buốt giá, với niềm hạnh phúc vô biên.
Xin gởi đến những
người bạn chiến binh đã khuất với những vết thương không bao giờ hồi phục, đã
một thời chia cay xẻ đắng :
- Hạ Sĩ Lê Văn Tây, Hải Quân HQ10 : hy sinh trong Hải trận
Hoàng sa 1974 .
- Chuẩn Úy Phan Hồ Khánh, Bộ Binh : mất tích trong Mùa Hè Đỏ
Lửa năm 1974.
- Bác Sỹ Đại Úy Phạm Văn Phu : Qua đời vì bệnh kiết lỵ trong lao tù Suối máu
1979.
- Thượng Sĩ Trần Văn Khuy, Ban Hậu Cứ : qua đời vì bệnh ung thư gan BMT
1971.
- Trung Sĩ Trần Châu, Thiết Giáp : Tử nạn trên đèo Phượng Hoàng 1975
- Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Tuấn, Đề Lô pháo binh : Hy sinh tại quận Buôn Hô - Darlac
1970.
- Và toàn thể Đại Đội 411 Thám Kích, thuộc Đại Đội 23 Tổng Hành Dinh Sư Đoàn 23
Bộ Binh: Những chiến hữu đã mến thương tôì, cũng là những người tôi hằng
qúi mến nay đã nghìn trùng xa cách, với một niềm nhớ khôn nguôi, một nỗi đau
không dứt, một tình thương trải rộng và một tiếc nuối vô bờ...
" Một
giọt nước mắt này
Thương
gởi về nơi ấy
Cứ vui
và hãy nhận
Làm
qùa tặng chia tay ".
Nguyễn Quyết Thắng