Lời người dịch:
“Chim Vô Ảnh”, truyện ngắn hiện thực về xã hội có cốt
truyện bình thường, một đoạn trong đời người phụ nữ hiện sinh. Sống theo sở
thích hay sống theo mục đích, hay sống theo tiêu chuẩn, sự chọn lựa tạo ra
trách nhiệm, mà Jean-Paul Sartre cho rằng đó là phẩm hạnh và lòng can đảm của mỗi
người. Ở một góc nhìn khác, sống theo sở thích là hệ quả của chứng loạn thần
kinh?
“Chim Vô Ảnh” cho những người thích viết hiện thực một lối viết không biến hóa bằng tưởng tượng, mà chỉ tập trung mô tả thực tế những gì cần đưa đến người đọc.
Claire-Louis Bennett sinh sống tại Galway, Ireland.
Tác phẩm The Lady of the House, 2013, đoạt giải The White Review. Tác phẩm
Bond, 2015 vào chung kết giải Dyland Thomas Prize. Tác phẩm Checkout, 2021, vào
chung kết giải Goldsmith Prize.
Sinh trưởng trong giới trung lưu ở Wiltshire. Tốt
nghiệp văn chương và kịch nghệ tại đại học Roehampton, London.
Truyện Ngắn
CHIM VÔ ÃNH
Invisible Bird
Sau khi tốt nghiệp, tôi muốn ở lại London. Bất kể
còn nợ một số tiền thuê nhà khá nhiều, không hiểu vì sao, tôi vẫn nghĩ, có thể
tiếp tục ở đây theo ý mình bao lâu tùy thích, trong căn hộ có trần cao, gần những
nơi thuận tiện. Tôi làm nhiều việc sửa sang khu vườn, đúng ra là hai khu, chủ nhà thuê sở
hữu hai khu bán nguyệt ở đầu một đại lộ rợp bóng cây thanh nhã. Hai khu vườn
sát bên nhau, có ngăn chia ở giữa, nối vào các nhà khác, mặc dù những khu vườn
phía sau, tuy ở cạnh nhau mà không có ranh giới, vì vậy dễ lầm lẫn xem chúng
như một khu vườn lớn nhiều màu sắc. Đặc biệt khi bạn ở dưới đó, kéo những dây
hoa bìm bìm mấy chục thước từ góc này đến góc khác, vào sâu trong bóng mát âm
u.
Thỉnh thoảng, người đàn ông từ căn nhà bên cạnh đi
xuống tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy cánh tay tôi bắp thịt nở nang, mà anh ta không
hề đụng tới một ngón tay giúp đỡ. Cảm thấy nhẹ nhõm khi anh không cố gắng bất
ngờ tham dự vào việc làm vườn. Mặc dù tôi thích thú những chuyến ghé thăm bất
chợt, nhưng không muốn anh hoặc bất cứ ai ở sát bên cạnh suốt ngày. Có thể khiến
cho tất cả cố gắng trở nên sốt sắng một cách lúng túng. Tôi nghĩ đây là một áp
lực nặng nề, đầy cảm hứng, sự hiện diện của người khác thường mang ảnh hưởng đến
cho mình. Công việc dọn dẹp vườn đã tốt đẹp, chẳng phải là kỳ công gì. Tôi
nghĩ, từ lâu, đã không ai đến gần khu vườn này. Không thể tưởng tượng tôi đã lấy
dụng cụ từ đâu. Chủ nhà cũng khá ngạc nhiên trước kết quả gây ấn tượng và nỗ lực
bền bĩ của tôi, đã nhiều lần họ bày tỏ sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, thực tế, tôi
còn nợ họ nhiều tiền, rõ ràng là không có gì phát triển tốt có thể giúp tôi giải
quyết sự thiếu hụt một cách thỏa đáng. Thậm chí, món nợ tăng dần. Một hôm,
trong phòng khách chưng bày đầy nghệ thuật, có cửa sổ hình cánh cung rực rỡ,
bên ngoài là buổi chiều mùa hè lộng lẫy, người chủ nhà đưa tôi một ly whisky lớn,
rồi nhỏ nhẹ thông báo, việc cho thuê nhà đến đây chấm dứt.
Có thể lúc đó London không phải là nơi tốt đẹp nhất
đối với tôi. Có những khoảng thời gian thường xuyên trong ba năm tôi sống trong
thành phố, chỉ nghĩ đến việc phải ra khỏi đầu đường, đã khiến tôi lo âu. Ở dưới
cùng con phố là nơi quen thuộc, một trong ít chỗ có thể đi đến vào những thời
điểm nhất định trong ngày. Mặc váy nhung dài màu xanh lá cây lẫn trong đám cỏ
xao động nhẹ nhàng, đi chậm rãi, trầm tĩnh quanh bờ ao, rải bánh mì dọc đường
kéo đàn vịt đi theo. Tôi tin rằng, mình sẽ không thoải mái ở bất cứ nơi nào,
nhưng London quyến rũ và có cách làm giảm bớt mức độ lo lắng không cần thiết.
Tất cả những người đó, tôi biết, chưa bao giờ để ý
đến tôi một chút nào, bất kể ra sao, linh hồn ngột ngạt của tôi bị đày xuống địa
ngục. Cảm thấy điều này khá mãnh liệt, đặc biệt là trên xe buýt vào buổi sáng,
trong một thời gian, tôi thấy côn trùng, vết lở loét nở trên khóe miệng những
người khác. Ở một khía cạnh nào đó, tôi phát triển được nhờ những mánh khóe kỳ
quái mà các giác quan thường đùa nghịch với tôi. Bối cảnh lốm đốm sáng tối của
London kết hợp với tâm trạng thần kinh của tôi, thay vì nỗi đau sâu đậm cần phải
chữa cho khỏi, lại có cảm giác như một quyền lực tò mò, một ngày nào có thể biến
mình thành thứ gì sắc sảo và lớn lên. Mặt khác, thành phố quê nhà tôi không có
bất cứ khả năng nào đề cao chứng loạn thần kinh thành một thứ gì khác ly kỳ,
tôi vô cùng không hài lòng nếu thấy mình trở lại nơi này, trở lại căn phòng cũ
trong nhà mẹ cha.
Sau một thời gian ngắn, tôi dời đến ở với người đàn
ông ngoan cố có mái tóc dài đáng yêu, sống trong căn hộ ở trung tâm thành phố, gần
nhà ga xe lửa. Trong nhiều tháng, vào các buổi sáng cuối tuần, tôi băng qua chiếc
cầu có đường rầy, tay cầm điếu thuốc, tay kia cầm thùng dụng cụ của cha. Những buổi
như vậy có vẻ lạnh và sáng. Sương đẹp nguyên sơ, như những buổi sáng thời thơ ấu.
Tôi ghi danh khóa học dành cho phụ nữ vào nghề rèn, bao gồm việc học ba loại
hàn: hàn bằng ga argon, hàn bằng khí oxygen và acetylene, tôi không nhớ loại
hàn thứ ba là gì. Sau ba năm được hướng dẫn giải mã văn học, tôi muốn làm công
việc gì có tính cách lao động cụ thể và theo nguyên tắc không thay đổi. Dù
không biết gì nhưng thích hàn và rèn. Kết hợp hai kỹ thuật này, tôi làm ra một
khung lắp gương soi, trông cũng được, đáng ngạc nhiên. Tuy vậy, chuyện trên hết
là tôi và người bạn trai không hài lòng khi sống ở đây. Trừ khi đã chuẩn bị sẵn
sàng để bắt đầu mọi thứ bình thường, mọi người sẽ nghĩ rằng bạn đang làm việc
gì đó, khó tin và khả nghi. Lối sống trong thành phố tầm thường ở Anh quốc có
thể hoàn toàn nghiệt ngã, mất tinh thần, thật không phải dễ chịu khi cảm thấy
lúc nào cũng bị xét đoán và không được tin tưởng.
Vào dịp Giáng Sinh, cả hai chúng tôi đều làm việc
ca đêm trong nhà kho cung cấp sơn ở ngoại ô thành phố. Rồi vào ngày cuối cùng của
tháng Giêng, chúng tôi lên đường đi Ái Nhĩ Lan. Anh bạn trai đã bán chiếc xe
hơi, còn tôi phải mất mấy tháng sau mới nhớ ra, cái khung gương mà tôi vất vã
nhiều tuần để hoàn tất, đã bỏ quên trong cốp xe.
Chuyến xe buýt từ sân bay Dublin đưa chúng tôi đến
giữa đường O'Connell. Không biết lúc này là mấy giờ, có lẽ, đầu buổi chiều. Một
người đàn ông hoạt bát, râu ria xồm xoàm như lông cọ vẽ, bọc trong bộ đồ màu
nâu nhăn nheo đang chào đón mọi người xuống xe. Bên ngoài trời ảm đạm, xám xịt
như ở trong thùng. Bạn trai mang theo ba lô lớn màu đen. Không nhớ rõ tôi có loại
túi nào, một loại không thực tế, một cái túi vô dụng. Không biết sẽ phải làm
gì. Tôi nghĩ, chuyện đang xảy ra không giống như chúng tôi quyết định dời chỗ ở
ngay lúc này. Còn một ít tiền nhưng không kéo dài được bao lâu, mọi thứ đắt đỏ
hơn dự tính. Hơn nữa, chúng tôi đã đi đến những nơi không thích hợp để sau cùng
phải trả giá cao sai biệt cho mọi thứ, Chẳng bao lâu nữa, chúng tôi sẽ cạn hết.
Thực tế, tôi nghĩ, đã lầm lỡ dùng mất số tiền cuối cùng vào bữa ăn hai món
trong nhà hàng sang đẹp, có tên là Ngư Nhân. Thành thật mà nói, đây là sự giải
thoát khi không còn tiền, vì khi còn, không tránh khỏi băn khoăn rồi tư lự
không biết bao lâu nữa sẽ cạn. Bây giờ thì phủi tay, mặc kệ. Tính toán chỉ vô
ích, giống như những gì quan trọng trong đầu tôi đã rớt mất.
Ký ức vài tháng đầu tiên ở Ái Nhỉ Lan hiện ra tự
nhiên không theo thứ tự thời gian, có nhiều khoảng trống, nhiều ngày biến mất.
Dù sao, không có gì khác biệt. Chúng không xuất hiện theo kiểu sắp hàng, chuyện
này xảy ra từ từ lôi kéo tiếp theo chuyện khác. Đôi khi may mắn, hồi tưởng đến
rồi đi, nếu không, sẽ mang theo những phức tạp, không còn cảm thấy may mắn nữa.
Tôi cảm nhận như vậy về Kenny, người mà tôi gặp tại quán rượu Sackville Lounge,
một ngày trong tuần. Anh có mái tóc chó sói và đôi mắt nhỏ, nhìn như đang sôi sục
trên khuôn mặt. Tôi để ý đến anh ngay lập tức. Một lúc sau, anh ta và bạn trai
tôi thân thiết như hai tên trộm. Tối đến, anh đưa chúng tôi về căn hộ gần
Mountjoy Square, rồi hỏi cô bạn gái, Anna, nấu nướng chút gì cho chúng tôi ăn
chiều. Cô ta đi ra ngoài lấy đậu và phó mát. Tôi cảm thấy khó chịu, đứng sau
chiếc ghế dài cho đến khi cô trở lại.
Nhà của Kenny và Anna không có cửa sổ, hoàn toàn
không, thay thế những vách tường là những tấm ngăn mỏng giống như rạp hát đang
dàn dựng cho một vở kịch trong bếp. Không được thoải mái cho lắm. Chỉ có thể
nhìn nhau hoặc nhìn xuống sàn nhà. Cảm giác không được tự nhiên. Trần nhà rất
cao, không biết chỗ nào có cửa kính nhìn lên trời nên thỉnh thoảng ánh sáng
khác thường vụt chiếu xuống. Tôi không nhớ việc này ảnh hưởng tôi như thế nào
nhưng nghi ngờ nó đã tạo ra một thứ gì. Chúng tôi rất nhạy cảm bởi những biến
chuyển rất nhỏ vì tất cả chúng tôi đang ở trong tình trạng gay go. Bên cạnh lý
do chúng tôi đang chờ đợi những chuyện không biết trước, là những gì đang kềm
hãm trong trường hợp ai đó gây ra sự đổ vỡ. Nhìn bên ngoài có vẻ như đoàn kết,
thực sự, bên trong hoàn toàn là chia rẽ. Bầu không khí căng thẳng, khó có thể
chịu đựng. Chỉ là vấn đề thời gian, một trong chúng tôi sẽ gây ra bùng nổ. Ở tầng
dưới, có nhà thờ, cuối tuần nhiều người Phi châu gặp nhau ca hát. Bên cạnh là
tiệm giặt ủi, chúng tôi rất thích sử dụng. Bất cứ khi nào kiếm được tiền, việc
đầu tiên là mang quần áo đi giặt. Trong thời gian gay cấn, quần áo sạch trở nên
quan trọng. Mọi chuyện diễn ra càng suôn sẽ, tôi càng vui mừng.
Khi ở nhà Kenny và Anna, không thể nhớ chúng tôi ngủ
ở đâu, nhưng có lẽ là một chỗ thích hợp. Ý của tôi là không phải sàn nhà hay ghế
dài phòng khách. Phòng tắm rất nhỏ nhưng tôi rất thích vì khi bước vào, đóng chốt
cánh cửa nhỏ màu bạc nhưng chắc chắn, ngay lập tức, tôi cảm thấy mình là một
người khác, chẳng hạn như trên chiếc tàu đại dương thật đẹp đang hướng về San
Francisco. Toàn bộ lát gạch, hầu hết màu trắng, đường viền màu xanh lá cây,
luôn luôn không có tì vết, như những chiếc khăn tắm. Tôi dùng loại kem dưỡng da
có mùi vani, Swiss Formula. Gợi lại cho tôi một thứ mà tôi không nhớ rõ, một loại
dầu đã dùng vào mùa hè vài năm trước, hoặc giả là dầu mà mẹ tôi thường dùng lúc
xưa. Tôi bắt đầu hoà hoãn với Anna. Tính cô rất cẩn thận, hợp với tôi vì tôi ít
nói, không có gì để nói nhiều. Cô ta có đôi mắt lồi lớn, đôi khi trông rất dễ
chịu, những lúc khác cảm nhận mang ấn tượng kinh bỉ. Chưa bao giờ thấy cô tỏ vẻ
khó chịu hoặc thậm chí cáu kỉnh, nhưng tôi cho rằng, có lẽ chỉ là hy vọng đơn
giản, cô có cách sống tách biệt để đối phó với Kenny. Mọi chuyện nhanh chóng rõ
rệt. Kenny làm việc cho một người có cửa hàng đồ nội thất ở Portobello, bán đồ
bắt mắt nhập cảng từ Bali. Kenny nói,
ông này thuộc thời Tự Do, và cha ông có chân trong xã hội đen. Kenny tiết lộ
chuyện này nhằm gây sốc và đe dọa chúng tôi, một hành động trẻ con. Sự chung đụng
đã cho bạn trai tôi một số công việc thường xuyên có bản chất bất an. Dù sao,
chúng tôi cũng có cảm giác đã thực hiện được bước đầu tiên để tự lập.
Một ngày, Kenny và bạn trai tôi giao hàng, một chiếc
ghế đôi màu đỏ thẫm đến một nhà thổ. Bạn trai tôi kể, phải đưa ghế vào qua cửa
sổ trên cao. Rõ ràng đã có hỏa hoạn lớn cháy cả tòa nhà vì những vách tường gạch
đỏ trần trụi bị nám đen khắp nơi. Anh nói, “Và chúng sáng bóng, tôi nghĩ, họ chỉ
cần đánh véc-ni ngay trên vết láng.” Có những kệ ngang trên tường lấp lánh cháy
thành than với hàng búp bê bằng sành sứ cũ ngồi dọc theo. Chân tráng men hơi
nghiêng, vòng kiềng vàng, màu hạt dẻ, nâu đậm, và nâu nhạt. Một cách kỳ diệu,
chúng không bị hư hao gì, đang bốc khói.
Tôi sớm phát hiện, trong ngày, Kenny rất thành thạo
khi nhanh nhẹn nốc cạn nhiều ly rượu, lén chỗ này, lén chỗ kia. Bạn trai tôi
không phải là người uống rượu giỏi. Những tác động quái ác của rượu gây ra cho
anh đã thể hiện rõ ràng và chắc chắn. Tôi bắt đầu nghi ngờ sự nhiệt tình có ý đồ
của Kenny đối với những ly rượu thường xuyên, ít nhất, do sự thúc đẩy bởi mong
muốn bạn trai tôi làm những hành vi mất tư cách càng nhiều càng tốt. Vì điều
này khiến cho Kenny trở thành người có quyền kiểm soát và khiến anh ta cảm thấy
nổi bật. Hơn nữa, gây ra nhiều rắc rối giữa tôi và bạn trai, làm tôi vô cùng
khó xử và lo lắng. Tôi nghĩ, Kenny muốn tôi đau khổ để trả thù vì đã không
thích anh và thờ ờ với những câu chuyện cao kỳ khi anh ta nói. Ngoài ra, bất cứ
cú đá giò lái nào mang lại cho Kenny “một ít quyền lợi,” giảm bớt bất kỳ chuyện
gì hai người họ đã làm trong ngày, thành một đồ nêm mỏng, đây là bước đầu tiên
cầm giữ chúng tôi bằng sợi dây xích ngắn do Kenny điều khiển. Chúng tôi chẳng
đi đến đâu. Bất chấp ưu điểm và khuyết điểm của bạn trai tôi, anh là người sáng
tạo, có tâm hồn, và chăm chỉ. Nhưng rồi cách nhìn cay đắng của Kenny, những lời
nói dối quanh co, đã bắt đầu bám dính vào bạn tôi. Chẳng bao lâu, anh trở nên bồn
chồn và muốn được tự do.
Chúng tôi không hoàn toàn cắt đứt liên hệ với Kenny
và Anna. Việc dứt bỏ gấp gáp sẽ khiến vấn đề trở nên tệ hại, nhưng chắc chắn phải
có khoảng cách, vì vậy, nếu có tiền chúng tôi sẽ ở trong nhà trọ, nếu không tiền,
sẽ ở ngoài phố, việc này càng lúc càng gia tăng. Trong mọi nơi, tôi thích ngủ
nhất trên đường phố Dawson, vì gần gũi tiệm sách và những khung cửa sổ lạ thường
ở mặt tiền trông thật thích thú. Trong tất cả các tiệm sách, có một tiệm trang
trí cửa hàng theo lối mới, trưng bày các trò chơi vi tính trên một số kệ lơ lửng
trôi nổi với một cửa ra vào khá lớn, thiết kế với độ góc nghiêng mà chúng ta có
thể đi ra vỉa hè, điều này quan trọng vì trời mưa thường xuyên và đường băng
qua ban đêm chứa đầy vũng nước đọng giống như chiếc lưỡi phóng đảng. Tôi phải
trải qua một khoảng thời gian dài khốn khổ khi cố giữ bàn chân luôn luôn khô
ráo, phải mất nhiều năm để da giữa các ngón chân lành lặn trở lại mịn màng như
xưa. Lúc này, khi bị ướt quá lâu, làn da chuyển sang màu nhợt nhạt nhăn nheo, dễ
sợ giống như con mực.
Một ưu điểm khác khi tạm trú trên đường phố Dawson
là suốt đêm rất yên tĩnh đến mức ngạc nhiên. Tôi nghe được tiếng động duy nhất
cót két từ tấm bảng hiệu của một tiệm bán đồ cổ đong đưa bởi cơn gió nhẹ, nhưng
không làm tôi khó chịu. Một loại âm thanh muôn thuở nhưng dường như bằng cách
nào đó gợi lên sự bế tắc của mọi thứ. Một âm diễn đơn điệu trong thế giới vô
âm. Một cánh cổng màu xanh lá cây chưa từng thấy trong đất nước này, một chong
chóng gió trên nóc nhà kho trống. Những âm thanh nghịch lý gợi nhớ đến “Con
Chim Vô Ảnh” của Proust, một sinh vật bí ẩn và cô đơn “cố sức làm cho một ngày
ngắn hơn, khám phá ra một ghi chú dài về sự cô độc, đè nén nó từ mọi phía, nhưng
nó nhận được ngay lập tức câu trả lời đồng nhất, một tác động phản hồi mạnh mẽ
của im lặng và bất động. Điều mà người ta nhận thấy nó bị giam cầm vĩnh viễn trong
lúc đang nỗ lực vội vã thoát thân.” Nói ra thật lạ kỳ, tôi không thích đêm bị
rút ngắn. Ngược lại, tôi yêu bóng tối, và nó không thể thoải mái bao trùm chung
quanh tôi, nếu bảng hiệu kia lúc lắc quá mạnh trên bản lề cũ rung rinh. Sau
cùng, gục đầu xuống ba lô tìm ngủ một giấc, rồi cảm thấy những góc thủy tinh có
hình hiệu chai dầu thơm thường dùng đâm thẳng vào hộp sọ của mình. Bên trong
não tràn ngập những suy nghĩ chậm chạp đang diễn ra với sự trong sáng rực rỡ
làm tan biết hết cảm giác khó chịu.
Đôi khi, ai đó đi chơi ở nơi nào khác trong một thời
gian, chúng tôi dọn vào ở thế chỗ họ với giá rẻ. Thực tế, đã xảy ra vài lần. Có
lần là bạn của Anna, lần khác, bạn của Kemmey đi chơi California cả tháng. Họ
có căn phòng rất đẹp ở quảng trường Leinster với những bậc thang lên tận cánh cửa
lớn màu vàng tươi. Tôi không nhớ nổi tên của người phụ nữ ở phòng này, chưa bao
giờ gặp mặt cô ấy. Người này có rất nhiều đồ cũ. Một máy hát nghe nhạc và những
dĩa nhạc. Tôi sung sướng khi tìm thấy nhạc nền cho phim “Last Tango in Paris”
và nghe nó mỗi ngày, thích thú cảm giác do bài nhạc này mang tới. Tôi đã sớm
phát hiện, nếu âm nhạc phù hợp, có thể mang lại ích lợi sung sướng say mê ngay
cả trong những hoàn cảnh ảm đạm nhất. Mặc dù, rất chú ý những thứ chung quanh,
nhưng cố tâm kềm hãm sự tò mò tìm hiểu. Tuy vậy, có một loại kem lót hiệu
Channel trong phòng tắm mà thỉnh thoảng tôi sử dụng một ít vì nó có mùi thơm thời
trang và lịch sự. Cô ta cũng có chiếc khăn quàng lông chim đỏ đậm mà tôi đã mượn dùng vài lần, rồi nó trở thành một phần quan
trọng trong y phục của tôi. Một thời gian ngắn, tôi và bạn trai đi trình diễn
rong ở Temple Bar. Một hôm, anh trở về căn phòng, rất khoái trá với chiếc áo
khoác đuôi tôm, mua rất rẻ trong căn tiệm bán đố từ thiện. Còn tôi, mua chiếc
áo đầm dạ hội kiểu Anh, vì luôn luôn cảm thấy, việc chuẩn bị cho đời sống mình
thích, hoặc đời sống đang có, là ý nghĩ hay.
Hành động chúng tôi trình diễn rong khá đơn giản: chỉ
là cảnh hai đứa ôm ghì nhau lãng mạn và kịch cợm, hoàn toàn bất động, chờ chực
một nụ hôn. Chuyện này xảy ra trước khi những tượng người vẽ tô sơn trở nên phổ
biến khắp các thành phố Âu Châu, cho dù việc giả làm tượng, thực sự, không phải
là việc chúng tôi nhắm tới, nó giống như một khoảnh khắc đam mê, khoảng thời
gian ngắn bị đóng băng, có thể nói là một hoạt cảnh.
Việc chúng tôi chuẩn bị hôn có một ưu điểm vì cả
hai cùng nhắm mắt là chuyện hợp lý, hành động này giúp giữ vững tư thế đứng lâu
hơn. Sau đó, một trong hai mí mắt bắt đầu co giật như điên, vì không được tự
nhiên khi phải nhắm mắt giữa các người lạ tò mò lẩm bẩm. Ngoài ra, cổ tôi cũng
đau nhức, như thể tất cả các kinh mạch bên trong bị đong lại và bầm đen hơn.
Đôi khi, tôi đứng, cảm thấy máu hiện ra như sấm sét. Đó là tất cả những gì tôi
có thể nghĩ đến. Dưới chân chúng tôi là chiếc mũ nhung, lật ngửa, một tấm thẻ
có ghi đôi lời như: “Không tiền đi xem phim, không tiền uống rượu hay mua thuốc
lá. Ô là la, cảm ơn trời đất, tình yêu vẫn miễn phí.” Thù lao không đến nổi tệ.
Đôi khi, có người nhét thẳng tờ giấy bạc vào túi quần láng lẩy của bạn trai
tôi. Một lần khác, người nào đó đã trộn lẫn vào một bao thuốc lá mới tinh,
chúng tôi vô cùng sung sướng. Thật là kỳ lạ khi không thể thấy bất kỳ ai tụ tập
rồi phân tán chung quanh chúng tôi suốt ngày, nhưng cũng tốt vì tôi không phải
giao tiếp với mắt của họ trong lúc đó. Không có cơ hội mở mắt, cũng không muốn
làm như vậy.
Tiền bạc chạy bay biến, chúng tôi thường xuyên tính
toán lầm sinh ra thiếu hụt không đủ mua bất cứ thứ gì để ăn. Có nhà hàng Centra trên phố Capel thỉnh
thoảng cho chúng tôi mua một ít món nóng còn sót lại vào cuối ngày, như khoai
tây chiên, xúc xích, và những món tương tựa.
Không biết được sự sắp xếp như thế nào và chúng ta
cũng không tạo ra thói quen. Nhớ lại, một buổi sáng rất đói bụng. Hôm đó, trời
hanh nắng, khoảng cuối tháng Ba. Ánh sáng lộng lẫy khiến tôi muốn làm một hành
động gì cụ thể và có mục tiêu rõ rệt. Giống như, những ngày dọn dẹp nhà cửa sạch
sẽ vào đầu mùa xuân. Chúng tôi đi bộ trên đường phố Goerge, đói cồn cào và ra sức
tìm kiếm. Khi bạn trai tôi dừng lại hỏi thăm người vô gia cư xin tiền bên đường,
hỏi xem có chỗ nào ăn sáng miễn phí. Anh ta trả lời, có, gần đây thôi, nhưng
anh nghĩ, họ chỉ dành cho đàn ông, không có phái nữ. Theo lời chỉ dẫn, thì ra
anh ta khá đúng, nhà bếp này chỉ giới hạn cho đàn ông mà thôi. Không nhớ anh bạn
trai đã nói gì với người gác cửa, có lẽ, phải miệng lưỡi rất dẻo. Ông gác cửa
né qua một bên để chúng tôi vào, rồi tuyên bố: “Đây là người phụ nữ đầu tiên bước
vào nơi này.” Còn nhớ, tôi liếc nhìn bạn trai và cố hết sức nín cười. Lời tuyên
bố tưởng chừng như tôi vừa được phép vào một câu lạc bộ như thành viên đặc biệt
độc nhất trên thế giới. Bên trong là những gì ngoại lệ. Tuy vậy, rất yên tĩnh
và rộng lớn. Phong cách trang trí đơn giản lộ vẻ nhân ái. Giữa phòng, một chiếc
bàn tròn, một người đàn ông ngồi đó, đầu quấn khăn băng bó dày cộm màu vàng. Chọn
ngồi đối diện với ông, dù không muốn nhìn cái đầu băng bó, nhưng không thể quay
lưng lại vì có thể làm cho ông tủi thân. Tôi ăn sáng chậm rãi. Không phải là bữa
ăn ngon. Trứng quá nhiều nước và đậu đã để ra ngoài quá lâu. Tôi không còn nhớ
lần cuối cùng đã ăn được một bữa ngon miệng. Đi đứng nhìn chung quanh biết bao
nhiêu là món ăn ngon ở khắp nơi, nhưng tôi không được đặt tay lên món nào. Một
buổi chiều, từ bậc cấp trước của nhà, chứng kiến chiếc bánh mì kẹp bị quăng vào
thùng rác, tôi phải tự đánh lừa mình vào trạng thái nhập thần để không thò tay
vào lục lọi.
Vào khoảng hơn một tuần lễ, tôi làm việc cho một
quán cà phê thời thượng trên đường phố Kildare, chuyên bán sô cô la nóng và cà
phê có hương vị khác lạ. Quán mở đến hai hoặc ba giờ sáng, thỉnh thoảng có đọc
thơ, những lúc khác xem bói bài tarot. Chuyện này rất được yêu chuộng. Làm việc
mỗi ngày, ca của tôi kéo dài giờ. Chắc chắn phải ở một nơi gần trên quảng trường
Leinster, hoặc tại nhà một người bạn của Anna, gần con kênh. Cho dù ở đâu cũng
vậy, vì một đêm đi làm về rất muộn, khoảng bốn giờ sáng, phải thức dậy để đến
quán lúc mười giờ cùng ngày. Chẳng có gì
đáng ngạc nhiên, tôi ngủ quên và đi làm muộn. Trên đường đến phòng nhân viên,
lướt qua quày, người quản lý nói điều gì mỉa mai và lập đi lập lại, điều gì về
chuyện không phải “một trại nghỉ lễ cà chớn.” Khi đang treo áo khoác và khăn
quàng tay tôi run lên, đó là chuyện cuối cùng mà tôi muốn thấy. Run lên vì mệt
mỏi, giận dữ, và tự biết mình phải rời chỗ này ngay lập tức, càng ít nói càng tốt,
nếu không, mọi thứ giấu kín trong lòng mấy tháng qua sẽ nổ ra cơn điên tiết cuồn
cuộn, phẫn nộ và tuyệt vọng không thể ngăn cản. Chỗ này tuyệt đối không phải để
thừa nhận bất kỳ sự đau khổ cá nhân nào. Mặc lại áo khoác, khăn quàng, đi ra
ngang quày, liếc nhìn người quản lý, thông báo, đêm qua tôi đã làm đến ba giờ
sáng hôm nay và đây có thể là bất cứ điều gì ngoài trừ một kỳ nghỉ có thể chấp
nhận. Cuối tuần tôi sẽ trở lại để nhận tiền lương.
Văn phòng trả lương tồi tàn ngột ngạt nằm trên tầng
cao nhất. Cảm thấy lo sợ khi leo lên cầu thang vào hôm thứ sáu. Một ngày cuối
tuần mà một trong ba người chủ mập mạp xuất hiện ngắn ngủi tại quán cà phê để
kiểm soát ngân khoản và trả lương bổng. Cả ba đều khó ưa và Kieran là kẻ khó chịu
hiển nhiên nhất. Theo thứ tự, thứ sáu đó, ông Kieran có mặt. “Tôi có thể giúp
cô việc gì?”, vừa nói, vừa ngả về phía sau, nhìn tôi bằng phần dưới cặp kính,
làm mất bình thường. Tôi đi thẳng vào vấn đề và lịch sự yêu cầu trả số tiền
công. Ngay lúc đó, cái đầu lại ngả thêm về phía sau và dường như tách rời làm
đôi khi phát ra tiếng cười giả vờ đầy ác ý. Tôi có bằng chứng gì làm việc trong
những giờ đó? Có hợp đồng không? Không. Vậy thì, ông chẳng cần trả một xu nào.
Ông khoe khoang, “Tôi rành rẽ những chuyện này, cô em không có bằng chứng nào cả.”
Không thể tưởng tượng có thể để mình rơi vào hoàn cảnh khó lường như thế này. Sự
tính toán trước của ông làm tôi chết điếng. Đồng thời, không muốn làm cho ông
ta vui thêm bằng cách chơi trò tuyệt vọng năn nỉ, chỉ tạo thêm hoàn cảnh đáng khinh
bỉ. Lặng lẽ, tôi đi xuống cầu thang, run rẩy, run lẩy bẩy.
Mọi thứ trở thành áp lực, vội vã đi tìm một việc
làm khác và nhanh chóng nhận được cuộc phỏng vấn tại một quán cà phê rất bình
thường trên đường phố Wicklow. Người chủ cũng mang tên Kieran. Theo thông lệ,
ông hỏi nơi nào tôi đã làm trước đây. Tôi kể lại tỉ mỉ những mưu đồ giấu giếm của
ba người chủ trước. Ông chủ mới đã hết lời bảo đảm với tôi, không phải mọi người
ở Dubling đều gian xảo. Thực sự, ông trông có vẻ rất buồn khi nghe kể câu chuyện
tồi tệ này. Tôi cảm thấy cần phải nói điều gì chung chung để đáp trả sự không
vui của ông. Tôi nói: “Những loại người như vậy có mặt ở khắp nơi.” Câu nói này
khiến cả hai chúng tôi vui một chút, rồi sau đó, mọi chuyện diễn ra tẻ nhạt.
Không chỉ nhận được việc làm, Kieran còn đề nghị ứng trước cho mượn một khoảng
tiền. Tôi vui sướng chấp nhận. Ngất ngây rời khỏi quán cà phê. Thế rồi, chúng
tôi đã có đủ tiền đặt cọc và trả một tháng tiền thuê căn hộ nhỏ không đồ đạc trên đường phố Leeson.
Tôi sẽ luôn luôn nhớ khi đi xem phòng thuê, không
phải vì chuyện đó quan trọng, mặc dù, dĩ nhiên là quan trọng, nhưng vì khuôn mặt
dính đầy máu khi ông ta mở cửa. Sau khi nói nhanh giọng đau đớn, “Xin chào”,
ông đưa hai bàn tay lên ôm đầu và nói ông đã bị đụng mạnh trên đường đi xuống.
Ngay sau khi lên đến căn hộ, tôi đứng cạnh ông bên bồn rửa trong bếp và bắt đầu
lau vết thương. Ông phải khom người để tôi có thể chạm đến trán nơi đang chảy
máu, dấu cắt khá sâu. Ông thực sự không có tâm trạng để tìm hiểu về chúng tôi,
ngược lại, chúng tôi cũng biết không nên giữ ông lại bằng nhiều câu hỏi. Vì vậy,
sau khi bỏ rác hết giấy lau và rửa tay, tôi đưa tiền thuê cho ông và lấy chìa
khóa. Chỉ thế thôi. Căn hộ thuộc về chúng tôi. Không đồ đạc gì. Tôi rất hài
lòng.
Khi không có không gian sống riêng tư trong một thời
gian dài, có thể sẽ cảm thấy thiếu thực tế và một chiều, đồng thời càng ít màn
che càng tốt. Căn hộ ở trên đỉnh tòa nhà nên trần thấp, có hai cửa sổ phía trước
gần như cao từ sàn lên đến trần. Khá tuyệt khi ngồi trên thảm uống nước trà, tựa
lưng vào tường, nhìn ra đường cái. Có một tấm nệm trong phòng ngủ, thật hay quá
vì còn mới và tiện dụng. Đi lên đường Meath và đường Francis để lấy ít đồ cần
thiết, khăn trải giường, khăn tắm, bình nước, vài chiếc ly từ quán cà phê, một
số bát đã không còn dùng vì máy rửa chén không rửa sạch theo đúng tiêu chuẩn.
Lúc này, nhiều tòa nhà đang bỏ ra những đồ đạc cũ, vì vậy, khắp trung tâm thành
phố có nhiều đồ dùng miễn phí, có thể lấy bất kỳ thứ gì nếu muốn. Chúng tôi thu
thập một số chân đèn lộng lẫy, một chiếc đài phát thanh cao cấp, chỉ bấy nhiêu
thôi. Dường như cả hai chúng tôi đều mất thói quen thèm muốn sỡ hữu. Thật vậy,
phải mất một thời gian để làm quen lại việc có một căn nhà riêng.
Khá thường xuyên, đứng ở một trong hai phòng trong
căn hộ, bằng cách nào đó, chăm chú nhìn vào nội tâm, không chắc mình đang ở đâu
hoặc nên làm gì trong vùng vô định giữa hai bên thái dương. Có thể cho đây là
việc tự nhiên nhất trên thế giới, nhưng hành động thoát ra khỏi cuộc sống kiểu
thông thường đã tiết lộ việc sống trong căn nhà trên thực tế là một khả năng
không phải tự động mà phải thu thập mới có. Ngạc nhiên thay, ngay cả việc đi ngủ
cũng khó. Cả hai chúng tôi đều nằm trong bóng tối, thức trắng và lo sợ. Ánh
trăng lọt qua cửa sổ không màn, rồi trăng bỏ đi, chúng tôi vẫn còn thức. Có lẽ
nỗi sợ hãi mà chúng tôi dồn nén khi ra ngoài đường bây giờ đã có nơi bộc lộ vì
đang ở trong một chốn an toàn. Tối thiểu, đó là những gì chúng tôi độc thoại và
nói với nhau. Thật ra, nguyên nhân sự bất an của chúng tôi khó xác định hơn. Ban
đêm, chúng tôi không có cảm giác an toàn trong phòng ngủ. Giống như bị giam giữ
sau một cánh cửa đóng kín, cảm thấy bị cắt đứt ra khỏi mọi thứ đang sinh hoạt,
như thể bị nhốt ở một nơi xa xôi vô định, không ai có thể tìm thấy. Chúng tôi lắc,
nhảy, la hét, đổ mồ hôi. Như thể chúng tôi đã quên mất cảm giác thoải mái trong
chính căn nhà của mình.
Rồi chúng tôi cũng quen đi, bắt đầu nấu những món
ăn ngon và dọn lên bàn có thắp nến như đã thấy trong vài ngày khi nhìn vào tòa nhà
bên kia đường. Buổi chiều nghe đài phát thanh, một đài tân cổ điển vừa được
phát sóng, đúng vào ngày sinh nhật của tôi. Không phải vì sự trùng hợp đáng ngạc
nhiên, mà sự kiện này khích thích tôi tưởng tượng, những bản nhạc yêu thương
kia được phát ra chỉ để riêng cho tôi. Thỉnh thoảng tôi mua hoa. Bắt đầu viết
trở lại. Những mẩu tin ngắn, nhiều lần tiếp theo, và những bức thư nhắn gửi bạn
bè, không phải lúc nào cũng đăng lên, một số vẫn còn gấp lại nhét giữa nhiều cuốn
sổ. Một số cuốn sổ bây giờ đã cũ. Những thứ viết từ thời đó không có gì đặc biệt
hoặc quan trọng. Chỉ là những lỉnh kỉnh vụn vặt trong ngày, những thứ cần thiết,
những sinh hoạt. Những chi tiết buồn tẻ mà đời sống phải phụ thuộc.
Tiền bạc vẫn như vậy , thật kỳ lạ, bây giờ, thấy những khoảng tiền càng ngày càng lâu hơn trong khi thu nhập và chi tiêu gia tăng đều đặn. Có những số điện thoại và tên ghi cạnh bên, nhưng tôi không thể xác định là ai. Đây đó là những ghi chú, những câu nhắn mà bạn trai và tôi viết cho nhau, theo kiểu vội vàng thường để lại trên quày bàn trong bếp: “Anh yêu, em sẽ về muộn.” “Em yêu, xin lỗi, có lời nhắn trong này.” “Em yêu, anh phải đi gấp, hy vọng sẽ về trước khi em đọc lời nhắn.” …v…v… Một số hình đồ của trò chơi Treo Cổ còn trên vài trang cuối của cuốn sổ tay lớn nhất. Chơi Treo Cổ! Hôm đó chắc hẳn chúng tôi đã thực sự mỏi mệt và kiệt sức! Ngồi bắt chéo chân lên bàn, chơi trò đoán tựa sách. “The Unbearable Lightness of Being.” “Vanity Fair.” “Story of O.” “Where Angels Fear to Tread.” “Down and Out in Paris and London.” Một tựa đề chưa đoán ra, vẫn còn bí ẩn. Một trong mấy cuốn sách của anh ấy, tôi chưa giải mã được, cho đến giờ vẫn chưa tìm ra. Mặc dù đã xem xét kỹ lưỡng những khoảng trống để điền chữ vào với đôi mắt nheo lại nhưng chưa thỏa mãn. Không cách nào để hỏi anh ta câu trả lời. Bạn trai tôi đã trở lại Anh quốc từ nhiều năm trước. Chúng tôi đứt liên lạc.