Đây là hình ảnh ví von trong bài Thị đệ tử của Thiền sư Vạn Hạnh. Tác giả nói chuyện thịnh suy ở đời cũng mong manh, chóng tàn như hạt sương đầu ngọn cỏ ( như lộ thảo đầu phô )
Thiền sư Vạn Hạnh ( 938-1018 ) là vị thiền sư thời Tiền Lê, có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập.
Thiền sư họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp ( nay thuộc thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh ), từ thuở nhỏ đã thông minh học thông Nho, Phật, Lão, và
nghiên cứu hàng trăm sách Phật. Năm 21 tuổi ông xuất gia tu học với Thiền sư
Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Khi thầy mất, Ông bắt đầu chuyên thực tập Tống Tri
Tam Ma Địa, nên sau này lời ông nói đều được cho là sấm truyền. Vua Lê Đại Hành
rất tôn kính Ông.
Ngày rằm tháng năm năm Thuận Thiên thứ 9, ( tức 30 tháng 6 năm 1018 ), khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư gọi đệ tử đến để dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Đây là bài Kệ thị tịch, còn được gọi là Thị đệ tử, với câu kết có hình ảnh Như giọt sương đầu ngọn cỏ.
示 第 子
身 如 電 影 有 還 無
萬 物 春 榮 秋 又 枯
任 運 盛 衰 無 怖 畏
盛 衰 如 露 草 頭 舖
Thị
đệ tử
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn
mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm
vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh
suy như lộ thảo đầu phô.
Bài
này vốn mang tên Kệ thị tịch, là bài kệ làm trước khi qua đời. Kệ là một hình
thức văn chương nghi lễ của Phật giáo, như Kệ dâng hương, Kệ dâng hoa, Kệ vô thường
buổi sớm. Các thiền sư thường làm Kệ thị tịch để căn dặn đệ tử trước khi qua đời.
Tiểu truyện về các thiến sư thường có những bài kệ. Những bài này vừa nói về giáo
lý nhà Phật. Thiền Uyển Tập Anh nổi tiếng với những bài kệ như Cáo tật thị chúng
của đại sư Mãn giác.
Cáo tật thị chúng có nghĩa là Báo cho mọi người biết là mình có bệnh:
告疾示眾
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai !
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời qua trước mắt
Đầu bạc tóc sương phơi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai.
Khoá hư lục của Trần Thái Tông (1218-1277 ) có kệ ngũ giới, kệ bốn núi. Bài kệ ta nói ở đây là Kệ thị tịch của Thiền sư Vạn Hạnh. Căn cứ nội dung và ý nghĩa của nó, bài Kệ thị tịch thường được nhắc đến dưới tên Thị đệ tử, căn dặn học trò.
Bài
kệ có ý nghĩa sâu sắc, gợi ra nhiều vấn đề triết lý, nhưng câu chữ không khó lắm.
Thị là nói
rõ cho người khác biết, như khai thị, mở, bày ra, biểu thị, bày
ra cho mọi người biết.
Điện ảnh không có nghĩa chiếu bóng, chiếu phim ( cinéma ) như ngày nay, mà là tia chớp. Kinh Kim Cang có mấy câu:
Nhất
thiết hữu vô pháp
Như mộng
huyễn bào ảnh
Như lộ
diệc như điện
Ưng
tác như thị quan.
Tất
cả những gì hiện hữu trên đời
Đều
như chiêm bao, như hạt nước bóng soi
Như hạt
sương lằn chớp
Nên
có cái nhìn như vậy.
Hoàn nghĩa là quay lại, người đi tu cởi áo gọi là hoàn
tục.
Mộc là cây,
thảo mộc, cỏ cây. Độc mộc bất thành lâm, một cây không thành rừng, một cây làm
chẳng nên non.
Vinh
là tươi tốt, phồn thịnh, đông đúc, hiểu như thành
ngữ bồn cố chi vinh, gốc vững thì cành xum xuê.
Hựu : cũng,
lại còn. Nhất thiên hựu nhất thiên, một ngày lại một ngày. Nhật tân hựu nhật tân,
qua mỗi ngày thêm mới ( đây là câu nói của Thang Vương, vua nhà An, về việc phải
nhớ mỗi ngay.
Khô hiểu
như hải khô thạch lay, biển cạn đá mòn.
Vạn
mộc xuân vinh, thu hựu khô, là cỏ cây tươi tốt vào mùa
xuân, sang thu thì héo úa.
Nhậm là mặc
cho. Nhậm tình phản đạo, lao nhi vô hoạch ( mặc theo ý thích mà làm phản tự nhiên,
phí công vô ích.
Vận là xoay
chuyển, biến đổi ( như trong vận hành ), mệnh vận là số phận.
Bố là sợ
hãi, doạ nạt. Khủng bố: sử dụng bạo lực và nỗi sợ hãi để đạt được một mục đích
về ý thức hệ. Uý cũng là sợ sệt, ( hậu sinh khả uý, tham sinh uý tử ).
Lộ là hạt
sương ( lộ châu ) , hơi nước gần mặt đất, đêm bám vào cây cỏ, gặp khí lạnh đọng
lại thành giọt.
“ Bạch lộ vi sương thu khí thâm
Giang thanh thảo mộc cộng tiêu sâm… “
( Móc
trắng thành sương, hơi thu đã già
Cây cỏ quanh thành bên sông trông đến tiêu điều!
)
Thu dạ - Nguyễn Du.
Lộ thiên,
lộ xuất ( ló ra )
Phô là bày ra, ( phô trương: bày ra có ý khoe khoang
), trải ra ( phô trác bố, trải khăn bàn, phô sàng: trải giường )
“ Phô khai bị ngoạ, thoát liễu y thường, thướng sàng tiện thuỵ -/Trải chăn nệm ra, cởi y phục, lên giường ngủ “ - Thuỷ Hử.
Bài
thơ mở đầu bằng sự khẳng định : Thân như điện ảnh hữu hoàn vô. Thân là biểu thị
của thân nghiệp, sắc tướng, hiển lộ bằng hình hài con người. Ở đây có thể hiểu
rộng ra thân là đời người. Cái thân con người chỉ là bóng chớp, hiện hữu rồi
qua đi, có đó rồi sẽ trở về không. Muôn kiếp con người có từ cõi vô thuỷ vô chung,
sinh ra và sống năm bảy chục năm rồi cũng tạ từ cuộc sống, lại trở về với cõi vô
cùng, vô thuỷ vô chung.
Hai câu cuối là tâm huyết của tác giả khi mong muốn con người hãy hành động bằng thái độ không sợ hãi:
Nhậm
vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh
suy như lộ thảo đầu phô.
Thiền sư Vạn Hạnh rất tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ để nhấn mạnh tư tưởng Thiền trong hành động khi dùng Thịnh suy đến hai lần với biện pháp điệp ngữ để nhấn mạnh sự vô thường của lẽ sống ( thường nghĩa là trường tồn ). Thịnh được gì và suy mất gì, chẳng qua tất cả là giả tạm, vậy tại sao lại ôm nó vào lòng để phiện muộn, khổ đau. Hãy học cách hành xử theo tinh thần “ vô bố uý “ , không sợ hãi trước sóng gió của cuộc đời và mạnh mẽ buông bỏ những thứ không cần thiết có thể cản trở con đường đạt đạo. Bằng cách này hay cách khác, dù bước đi có khác nhau, chúng ta vẫn cần có sự tinh tấn, nỗ lực hết mình, trân quý những phút giây hiện tại để làm tươi mới mối tương thích giữa đạo và đời. Đó chính là giá trị tích cực mà Thiền Tông đem lại cho đời.
Nội dung xuyên suốt của bài thơ là giá trị hiện thực với những hình ảnh minh chứng cụ thể, rõ ràng. Chất Thiền trong bài thơ là nguồn động lực cho những ai từng vấp ngã trong cuộc sống, là tâm sự, là lời gởi gắm của vị thiền sư, là cả một bầu trời yêu thương gởi đến những người cùng khổ. Bài thơ càng có ý nghĩa hơn khi nó là bài cuối cùng của thiền sư trước khi viên tịch.
Diễn nghĩa
Đời
người vô thường như bóng chớp, có rồi lại không
Như cây
cối, mùa xuân tươi tốt, mùa thu héo vàng
Mặc
cho vận đời, dù thịnh hay suy, đừng sợ hãi,
Vì sự suy thịnh mong manh như giọt sương đầu ngọn cỏ.
Dịch
thơ
Bài
1:
Đời
như tia chớp có rồi không
Cây
xuân tươi tốt thu héo hon
Mặc
cảnh thịnh suy đừng hãi sợ
Chỉ là
sương đọng trên cỏ non.
Bài
2 :
Thân
như chớp có rồi không
Cỏ cây
xuân thắm sang đông lại tàn
Sợ gì
suy thịnh thế gian
Thịnh
suy như cỏ ngậm sương trên đầu.
Bài
3:
Đời
người bóng chớp có lại không
Cây
xuân tươi tốt thu não nùng
Mặc
chuyện thịnh suy không sợ hãi
Chỉ là
ngọn cỏ ngậm sương trong.
Bài
4 :
Muôn
cây thu héo xuân tươi
Đời
như tia chớp có rồi lại không
Sợ gì
suy thịnh hưng vong
Chẳng
qua ngọn cỏ ngậm sương mỗi ngày.
Bài 5 :
La vie humaine est un éclair sitôt né, sitôt disparu
Verdoyant au printemps, l’arbre se dépouille en automne
Grandeur et décadence, rien à s’en effrayer
Décadence et grandeur ne sont que goutte de rosée perlait
sur un brin d’herbe.
Bài thơ thiền sư Vạn Hạnh làm trước khi viên tịch, tính đến
nay đã hơn mười thế kỷ, vẫn được truyền tụng như một viên ngọc sáng ngời cả về
ý tưởng lẫn nghệ thuật. Tư tưởng buông bỏ mọi thứ hậu sinh vẫn thấm nhuần:
Bận lòng chi nắm bắt
Trăm năm nữa còn không
Xin về làm mây trắng
Nhẹ nhàng trôi thong dong.
Thích Minh Nhiệm.
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Cuộc đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời.
Tôn Nữ Hỷ Khương.
Đọc lại và tìm hiểu Thị đệ tử giúp mỗi chúng ta tự tìm cho mình một lẽ sống…