Tác giả của ba tuyển tập truyện ngắn và ba tiểu
thuyết. "City of Bohane" tác phẩm đoạt giải International Dublin
Literary Award năm 2013, giải thưởng cao quí nhất về tiểu thuyết xuất bản ở Anh
quốc. Tác phẩm Night Boat to Tanger được đề nghị cho giải Booker Prize 2019.
Các giải khác:
2007: Rooney Prize for Irish Literature (There are
Little Kingdoms)
2011: Costa Book Award, shortlist (City of Bohane)
2012: The Sunday Times EFG Private Bank Short Story
Award (Beer Trip to Llandudno)
2012: Authors' Club First Novel Award (City of
Bohane)[25]
2013: Edge Hill University Short Story Prize (Dark
Lies the Island)
2015: Goldsmiths Prize (Beatlebone)
2020: Elected member of Aosdána
2022: Edge Hill University Short Story Prize (That
Old Country Music)
Truyện Ngắn
QUÁN RƯỢU KHÔNG BIA
The Pub with No Beer
Thoạt đầu, anh không nhận ra giọng nói. Giữa buổi
chiều kéo dài dường như vô tận, anh bước vào quán rượu bằng cửa bên hông nhẹ
nhàng lặng lẽ như đi vô nơi chôn cất người chết. Bây giờ đã cuối tháng Ba, đồng
hồ sắp phải đổi giờ, sức nóng đầu mùa quen thuộc khi anh anh kéo rèm che cửa sổ
lên một chút cho nắng vào, để nhìn thấy bên trong. Ánh sáng có tác dụng ám chỉ
sự sống. Hé cửa sổ cho mát mẻ rồi nhìn ra ngoài.
Trong vịnh, thủy triều dâng nước lên cao, những ghềnh
đá sóng vỗ ầm ĩ, mõm đá đâm vào bầu trời quang đảng.
Michael Batt nói: "Nhẹ thôi, nhẹ nhẹ, xoay
bánh lái nhẹ thôi. Tôi bảo đứa trẻ xoay từ từ, cho đến khi tôi xanh cả mặt, liệu
nó có nghe lời không? Trong chỗ ngồi êm ái của tôi chắc nó sẽ nghe. Nó thừa hưởng
tính khờ khạo từ người mẹ. Ngồi sau tay lái, giống như đang vật lộn với con khỉ
đột khốn nạn."
Kevin Barry đang kể chuyện ma và quán rượu ở Ái Nhĩ
Lan.
Cậu trẻ đã lớn lên từ lâu và lái xe một cách chừng
mực. Michael Batt, cha cậu đã qua đời lâu rồi. Nhưng chiếc ghế đẩu trong góc
quán rượu vẫn mơ hồ là chỗ ngồi của ông. Từ nơi đó, sáu chiếc ghế đẩu khác sắp
dài đối diện với các hàng ly và những chai rượu mạnh chưng bày bên kia dãy vòi
rót rượu. Cha của anh gọi là các vòi đầu chó (*). Anh sẽ giải thích ngắn gọn,
Cerberus, con chó canh cổng hỏa ngục.
Đầu bên kia quày rượu là cánh cửa sập treo màn đi
ra sau bếp, tiếp theo, một hành lang u ám dẫn đến phòng vệ sinh. Anh mỉm cười
trước những lời lẽ của Michael Batt, thái độ mặc nhiên chấp nhận lâu ngày được
rèn luyện để phát huy tác dụng, những câu nói mà Batt đã luyện tập khi đi trên
con đường ven biển hướng về phía ánh đèn quán rượu trong tất cả những buổi tối
lạc lõng trước đây.
Anh ta bước ra sau quày rượu, đặt nhẹ tay lên vai
nó, nhìn ra ngoài, nhìn căn phòng trống trải, chầm chậm đưa mắt từ trái sang phải.
Anh nói, "Đến giờ rồi."
Lấy mảnh vải nhúng vào nước trong bồn cho ẩm ướt,
lau dọc theo mặt quày bàn, lặng lẽ làm cho nó bóng lên. Mục đích của việc làm sạch
bóng để chứng tỏ có lao động nhẹ nhàng. Hàng ngày, mặt quày bóng lưỡng để nhìn
thấy các vân gỗ, các vết nứt, vết xước của thời gian. Quán rượu thuộc về gia
đình đã bốn thế kỷ. Cha anh thừa hưởng từ người chú độc thân. Trong ba thể hệ đứng
sau quày rượu, có cùng một bộ lông mày dày rậm, tối thiểu khẳng định vẻ lịch
thiệp bên ngoài. Ánh nắng từ tốn len lỏi từng chút trên sàn nhà. Trong những
lúc bình thường hơn, đó là khoảnh khắc những lớp tiểu học tan trường và anh bỏ
lỡ những cuộc chuyện trò rất hào hứng từ sân trước vọng qua bên kia đường. Cả sự
ồn ào và say xỉn trong quán rượu đều không được chấp nhận.
Cha của anh luôn luôn giữ ý nghĩ, "phải có
một nơi như quán rượu để trầm tư."
Vắt sạch khăn ướt và để bên bồn rửa, cúi xuống sau
quày rồi đi ra phòng vệ sinh. Dừng lại giữa chừng, chống tay vào tường để lấy
thăng bằng. Một cảm giác khó chịu trào lên, căng phồng như nghẹt thở, có lẽ là
một dạng phản ứng của kinh hoảng, nhưng qua nhanh, nhanh như những đám mây
ngoài khơi Bắc Đại Tây Dương. Điện thoại reo, anh nheo mắt đọc, rồi dành ra nửa
phút để gõ chữ trả lời cho một bà dì đang gặp trở ngại trong nhóm gia đình
Whatsapp.
Liệu bà ta có bao giờ ra khỏi nhà không?
Liệu bà có bao giờ chịu ngưng lên mạng lưới khốn nạn
không?
Gia đình luôn luôn lắng nghe ý kiến đáng tin cậy
cùa anh. Điều này càng gia tăng gánh nặng.
"Có thể là một trong bốn mươi hai điều xảy ra
với tôi," Frank Waught với một
ly Smithwick. "Có thể là chất cường toan trong dạ dày. Có thể là phấn
hoa. Có thể tệ hơn cả hai thứ đó. Dĩ nhiên, cũng có thể vì sợ."
Ông Waught sống đến 92 tuổi, đã chết khoảng 50 năm
trước. Ông là người thích bàn thấp hơn là ngồi cao bên cạnh quày, một người phản
kháng xã hội, cần người ta tương tác. Từ hành lang, anh nhìn về phòng ngồi uống
rượu, về phía những giọng nói đã mất. Năm chiếc bàn trống sáng lên trong ánh nắng
tà. Tiếp tục, anh bước vào phòng cấm địa của quí bà với cảm giác ngần ngại. Mở
cửa sổ trên bồn rửa, xịt thuốc Detto vào bồn cầu. Đưa khuôn mặt vào gần gương
soi, thấy nó bành rộng, thở chậm rãi tạo ra hơi mờ, khi tan đi, thấy được đôi mắt
anh già nua màu xanh lục. Các đường gân đỏ như bản đồ. Mũi quắm, kiểu mũi Pháp.
Niềm kiêu hãnh khờ khạo; sự hư ảo của miên viễn. Đôi lông mày ngông cuồng của một
người Thiên Chúa giáo bị ô nhục. Nhắm mắt lại. Một đôi môi dài gợi cảm đã vẽ
trong gương.
Alice Nealon nói, "Con chó đặc biệt đó đi đến
tôi một lần nữa, cũng được thôi. Mỗi đêm, tôi bách bộ vào lúc bảy giờ rưỡi, lần
đó, tôi bắt gặp con khốn nạn này lao đến, nó có khuôn mặt dài hơn sân của
Sullivan, đồ chó ngu! nó lê lết chạy đến! Lần sau, tôi sẽ đập vỡ mặt ngu
nó."
Cô ta luôn luôn bắt đầu buổi tối bằng nửa lít bia
đen, rồi một nửa lít nữa; sau đó ngừng lại suy tính. Cô sẽ tuyên bố bằng giọng
giật nẩy rằng có thể uống thêm một lít. Thêm ba lần nữa trước khi cạn một ly
Jameson đôi lúc 11 giờ. Ly này đưa cô ra cửa với khuôn mặt đỏ hồng, với lời lẽ
lầm bầm khó hiểu nói với những con chó chung quanh.
Anh ra khỏi phòng vệ sinh đàn bà, vào phòng đàn
ông. Suốt thời gian làm sạch chưa bao giờ có được mùi dễ chịu hơn. Đàng nào
cũng mở cửa sổ. Mở vòi nước. Giật nước cầu. Mang găng tay cao su, cất ở túi
sau, thay các viên thuốc tẩy trong bồn tiểu. Anh đái vào một bồn sạch như dị
đoan cầu may mắn rồi tự bật cười thì thầm. Những lần như vậy anh vẫn thường cười
một mình. Có điều gì vui nhộn một cách lạ lùng trong những lúc khó khăn. Anh đã
đóng cửa gần 400 ngày rồi.
Khi anh quay lại trong quán, cửa trước vang lên ba
tiếng gõ từ tốn, hai tiếng gõ nhanh theo sau, như thể đang sử dụng mật mã. Anh
đến cửa sổ, hé rèm nhìn ra, một người đàn ông mập ở tuổi trung niên đang nhìn
ngắm vịnh, những cột cờ, và bầu trời. Không nhận ra ông là ai nhưng tâm trạng
anh nhanh chóng trở nên u ám trong lúc đi đến cửa trước. Một người chủ quán
kinh nghiệm là một độc giả tri thức về sắc thái của tâm trạng. Có khi nào, thần
chết đang đứng kia không?
Khi anh mở cửa, người đàn ông quay lại với đôi mắt ngờ vực của con cú và nói nhỏ như dế:
"Này, có con chim cu gáy phải không?"
"Ồ có. Trong bụi cây ngoài sân trường. Nó sẽ
cho ông biết tất cả những gì về nó."
"Được, bóp nó nghẹt cổ đi. Anh có thể bán cho
tôi nửa lít rượu không?"
"Tôi không bán được."
Ông ta hả miệng một cách phóng đại kiểu hề
Vaudeville.
"Anh không được phép bán rượu mang ra
ngoài?"
"Trong phố có vài chỗ bán, nhưng chỗ tôi không
được. Tôi chưa có rượu nào cả."
"Khó khăn quá. Tôi nhìn thấy cửa sổ mở, nghĩ rằng
có cơ hội mua rượu."
"Chẳng hại gì."
"Tôi nghĩ rằng anh không nhìn ra tôi?"
"Không, nhưng tôi cố gắng đoán ông đến từ nơi
nào."
Đúng như vậy. Người lạ đang cố tình giữ khoảng cách
hai mét và anh phải nheo mắt về hướng ánh nắng để nhìn ông cho rõ. Khuôn mặt
già có nét người Trung Cổ. Đôi mắt trong, nghiêm nghị, ánh mắt có khả năng giết
người nhanh chóng. Nhưng ông ta nói nghe dễ chịu.
"Tôi lớn lên cách đây không xa."
Sau đó, vẻ già lùi lại trên khuôn mặt người lạ, để
nhường cho nét kịch sĩ O'Casey thành hình. Một gia đình nghèo từ con đường trải
theo ven bờ biển buồn bã mà họ từng ở đó. Một trong những gia đình đã tan ra và
biến dạng theo tám phương trời. Để lại sau lưng vết thương của ngôi nhà. Cái lỗ
hổng của cánh cửa trống đã đứng trên đường ven biển qua nhiều năm như mời gọi
những khổ đau chồng chất bên trong. Gia đình đã sống ở đó khoảng ba chục năm.
Chẳng phải không có chuyện người cha nổi điên?
Anh hỏi, "Ông có phải là O'Casey?"
Người đàn ông cười bành miệng, hở môi trình bày bộ
răng giả mới đầy hãnh diện.
Anh xác nhận ý tự suy đoán, "Còn lâu lắm
ông mới bước ra khỏi cái bóng của mình."
Buổi chiều quy tụ vào sự yên lặng nặng nề. Con diệc
đứng vượt thời gian trên tảng đá rêu phong. O'Casey nhìn qua vai anh vào không
gian u ám quán rượu.
"Tôi muốn uống một ly whiskey?"
"Tôi đề nghị nếu ông không trả tiền."
Từ ngưỡng cửa, anh quay lại bước vào quán, hơi thở
dồn dập hơn. Ra sau quày, lau ly rượu không cần đánh bóng rồi đặt dưới tầm mắt
để rót đầy một mức rượu Powers. Từ ngưỡng cửa có người theo dõi anh suốt cả thời
gian với nụ cười.
"Tôi không có đá lạnh. Thêm một chút nước
không?"
"Tôi không cần."
Anh mang ly rượu ra và đặt vào tay người lạ.
"Tôi không nhớ ông là ai, chỉ nhớ, trong nhóm
ông có một số người?"
O'Casey trả lời, "Đám trẻ chúng tôi có tám
đứa. Cha anh đã đuổi tôi ra khỏi chỗ này vài lần.'
"Có thật không?"
Một lần nữa, ông xoay mặt về hướng vịnh, trầm ngâm
về tháng ngày chậm rãi trôi qua mấy chục năm. Ông nhấm nháp một chút Powers,
không bình phẩm lời nào. Thế giới trở nên yên tĩnh trong mùa kỳ lạ này. Dọc
theo đường ven biển vắng vẻ, băng qua màu xanh tươi của các cánh đồng, trên vịnh
nước trong xanh không có thuyền qua lại, không nhìn thấy một linh hồn nào.
O'Casey nói, "Một đêm, từ nơi này, cha tôi
trở về run rẩy. Tôi nhớ đã theo dõi ông ngồi nhìn đống lửa và cảm nhận được ông
đang khó thở."
Vẫn đăm đăm nhìn ra vịnh, để đón nhận vẻ rạng rỡ
mùa xuân tràn ngập. O'casey tìm lại được giọng nói người đàn bà trong quá khứ,
mẹ của ông, nghe rất rõ.
"Joe, chuyện gì vậy? Sao vậy? Xin Chúa thương
xót, Chúa có nói gì với con không?"
"Mẹ tôi luôn luôn lo lắng cho anh ta. Thần
kinh của anh không được ổn định. Anh mắc phải cái thứ mà mẹ gọi là bùa ngải."
"Xin lỗi, con không nhớ gì cả …"
"A, không nhớ, con không nhớ gì. Con đã trốn
khỏi trường nội trú."
Bí ẩn lớn nhất là cách người khác cảm nhận chúng
ta. Quán rượu luôn luôn là cơ sở đáng tôn trọng. Anh không ngờ những người khác
coi trọng gia đình anh như vậy. Nhưng cũng nhận ra, những ai bị buộc tội có
hành vi hợm hĩnh thường phản ứng bất ngờ trước lời cáo buộc.
O'Casey nhanh chóng uống cạn ly whiskey, rồi đưa ly
trống ra, nhưng khi anh với tay định lấy, ông rút ly lại, như thể đang đùa nghịch,
mà không thấy nụ cười. Ông chỉ đặt ly xuống thềm, cạnh bàn chân rồi quay lưng bỏ
đi.
Anh quay vào quán, khóa cửa, rồi ngồi xuống một bàn
thấp, bộ dạng gọn gàng như khách hàng. Nhìn chậm rãi chung quanh quán trong một
phút. Không ca hát, không đọc thơ, không nhìn thấy tình cảm lãng mạn. Đây là
nơi dành cho các hiệu trưởng, những nông dân đáng kính, những luật sư của chính
quyền. Sự đạm bạc của thế giới anh khép lại. Trong yên tĩnh như vậy, tất cả đều
được phóng đại. Các tấm màn tuột mất; chính căn nhà cũng có thể sụp đổ. Vào cuối
tháng Ba, ánh sáng biểu lộ vẻ tinh khôi còn mới.
Tim Godfrey nói, "Ông ấy muốn mua con chuột
cho anh ở siêu thị Ballina. Một người cẩn thận, sẽ không tìm thấy như ý muốn.
Có người cha như vậy, đủ nhức đầu."
Anh phải thừa nhận điều đó. Đã nhiều năm, từ khi Godfrey
ám ảnh căn nhà, dưới chân dãy bàn thấp thấy ánh mắt hóm hỉnh. Godfrey là một
nông dân thuộc giáo hội Ái Nhĩ Lan từ núi Ox, được cấy ghép vào cuộc hôn nhân kỳ
lạ xuống đồng bằng vùng Bắc Mayo, từ sau nơi này, anh có thể nhìn thấy rõ ràng.
Đúng ra cha anh là người cẩn thận. Lớn lên trong ngôi nhà với người đàn ông
này, có thể nghe bản thân mình suy nghĩ. Không cần nói một lời nào, có thể cảm
nhận được mình đang tự đo lường những nhiệm vụ có khả năng hiển thị. Hiện giờ,
việc trong quán diễn ra chậm chạp.
Anh đứng dậy, ra sau quày, đặt một ly lớn dưới tầm
mắt, rót đầy Bushmills cho mình, nhỏ vào bốn giọt nước pha loãng. Uống một cách
say sưa để cảm giác ngọn lửa từ từ đi xuống bụng. Đã nhiều năm qua, anh mới có
tâm trạng nhiệt tình như vậy. Sức nóng khuấy động anh mạnh mẽ. Cảm giác được cường
độ sự bực bội khi còn trẻ. Anh không muốn nơi này, nhưng đã tự ép mình vào
khuôn khổ. Nỗi oán hận đó, chưa bao giờ kể ra.
Một thái độ được đánh dấu bằng nhiệt tình, nghị lực
hoặc lòng dũng cảm: hát với tinh thần của quân đội chiến đấu. Anh lắc đầu xua
đuổi cảm giác và bước ra khỏi quày. Đi đến cửa sổ mở rèm thêm chút. Nhìn thấy vịnh
rộng lớn hơn, những cột cờ Broardhaven thấp thoáng và chim Cốc được sắp xếp kiểu
gô-tích trên nền đá màu đen lấp lánh. Thời gian không thể đo lường theo cách
thông thường. Các điểm đánh dấu ngày và đêm đã không còn sử dụng. Trừ đi những
thói quen, anh không còn là phương trình đầy đủ của chính mình. Buổi chiều, những
lần đến quán rượu để tạo thói quen nhưng giờ đây đã thất bại. Càng ngày càng lấp
đầy những tiếng nói cũ đã mất. Anh đi đến mở cửa trước, cúi xuống tìm nhưng
không thấy ly rượu O'Casey để lúc nảy. Đóng cửa, khóa lại. Ngồi xuống bàn thấp.
Mặt trời di chuyển vô tình chung quanh ngôi nhà, đột nhiên, ánh nắng tràn ngập
căn bếp phía sau.
Ngồi tại chỗ, anh cảm thấy bị thu hút bởi ánh nắng.
Nhiều giọng nói vang lên chung quanh, giọng này xen lấn với giọng kia, của Fred
Coakley, Andrew Mac, Tess Hennebry …
"Tâm trạng tôi chỉ có hai tốc độ. Khi dễ tính,
10 dặm một giờ, hoặc 150 dặm, khi tôi hoàn toàn giận dữ, từ số không đến bùng nổ
Hiroshima. Điều gì khốn kiếp đã khiến tôi như vậy?"
"Tôi sẽ ăn chứ? Tôi không biết mình sẽ ăn. Dù
sao, ném cho tôi miếng bánh mì phải không? Tôi không nói sẽ ăn bánh. Mặc dù có
thể ổn định trong một thời gian ngắn."
"Cha của anh lẽ ra phải làm linh mục. Nhưng
không phải ông đã có một người anh? Cả hai người trong gia đình cùng làm."
Anh ta một mình với những tiếng nói. Muốn trốn xa họ.
Muốn du hành qua chính bản thân và qua các cánh đồng của vịnh, xa hơn đường
chân trời, vào xích đạo, vào ánh sáng.
Đứng lên, buồn bã, anh băng qua phòng rượu, vào bếp.
Bếp luôn luôn là nơi tôn nghiêm của ngôi nhà. Kéo màn cửa, che khỏi tầm nhìn
công cộng. Thời gian không thể từ ống chỉ tháo bật ra.
Tức giận khách hàng, có lẽ, bị một câu phê bình xúc
phạm, nổi giận bởi ít nhận thức hời hợt, cha anh đã rút vào nơi này và lặng lẽ
khóc. Để trở thành một chủ quán là một công việc suốt đời.
Cha anh nói, "Mọi người cần an tâm. Họ luôn
luôn muốn nhìn vào biểu cảm trên mặt mình. Mình phải dàn cảnh khuôn mặt bất hạnh
cho họ xem."
Cha anh sắp xếp phòng rượu theo một nhãn quan khéo
léo, thực sự, gần giống một linh mục, ông cung cấp một nơi bình an và được xá tội,
hoặc tối thiểu, đó là tấm lòng của ông. Ánh nắng chiếu xuyên qua bếp giải tỏa sự u ám, trở nên hết sức nhẹ
nhõm. Anh nhắm mắt trước quan cảnh này. Cố gắng tưởng tượng một đời sống khác,
nhưng vô ích. Từ quày, một giọng nói bắt chước cách nói lắp bắp của phát ngôn
viên trong siêu thị Ballina, quảng cáo giống bò thịt trắng, nghe không rõ.
"B .. bốn mươi, b.. bốn mươi, suốt đường
v... về nhà … Bạn có biết gì về bạ… n không? B..mươi … bốn mươi
một … l lần có…có nó… bốn
mươi lăm…"
Khi những người đàn ông cười đáp trả lời chế giễu
nhẹ nhàng, lúc đó anh còn là cậu bé. Ngồi trên mặt quày bàn, hai chân đong đưa,
cầm ly coke trên tay, một gói Taytos đã xé sẵn, để bên cạnh. Có lẽ, anh vào khoảng
năm hay sáu tuổi. Đám đàn ông từ siêu thị trở về. Cha anh rót những vại bia đen
cho đến khi chúng đến gần một phần ba vành miệng, rồi xếp đám ly trên mặt quày
để lắng bọt khoảng một phút trước khi hoàn tất bằng biểu diễn những trang trí.
Các tiếng nói trong phòng dễ nghe và có sức ấm áp lớn. Siêu thị chắc buôn bán tốt
đẹp. Anh ta được chiều chuộng và quậy phá nơi này vì là con ông chủ. Một ông
già nói, anh sẽ giàu có nơi siêu thị, để xem những gì anh sẽ bán. Lúc đó, anh
đã biết trả lời chế nhạo. "Gertie, đứng dậy đi về đi."
Mùi than bùn và bia đen đã mở miệng đám đàn ông. Đội
Mayo trong tình trạng thất thế. Có hai người bạn uống rượu suốt mùa đông. Khói
thuốc lá Carroll và Majors phảng phất. Những chai nửa lít mang xuống từ kệ dành
cho những người ba hoa nốc cạn một hơi. Các tờ báo gấp lại và cột cáo phó liếc
nhìn ra vẻ thích thú. Anh biết cha anh cầu nguyện mỗi đêm. Có lần, anh nghe cha
thì thầm trong khuya nói rất tự hào về Chúa và những việc Chúa làm. Không thấy, nhưng nghe thủy triều dâng cao từ xa, dữ dội,
những tiếng đập lớn kéo theo tiếng vọng trả lời sâu lắng, khi gió gào thét
trong tâm trí cậu trẻ, những lá cờ bay phần phật trên bầu trời. Đó là thế giới
của cậu thuở đó. Cậu là hoàng tử bất khả xâm phạm của phòng rượu.
Anh chưa thể tự mình nói chuyện với Chúa. Đi từ nhà
bếp vào lại quán, vắt chiếc khăn trong bồn. Những tiếng nói trong quán của thời
gian gần đây làm anh mất thể diện. Họ tự bộc bạch bản thân lộ liễu một cách xấu
hổ; thân xác của họ sắp trước quày dáng
dấp hổ thẹn. Anh cảm thấy, những tiếng nói trong thời gian gần đây bị pha màu bởi
tham lam và thô tục. Anh đã đến lứa tuổi không may khi tin rằng những người trẻ
là những kẻ man rợ.
Đóng cửa sổ và kéo rèm che ánh sáng cuối chiều
tháng Ba. Tuổi tác đã bám chặt anh ta. Những tiếng nói nhỏ dần rồi không còn
nghe gì nữa. Có thể anh ta sẽ bán cái chỗ khốn kiếp này.
Anh rời quán bằng cửa hông, đi bộ dọc theo bờ nước
một khoảng. Anh sẽ không bao giờ bán được quán với giá mong muốn. Hầu như không
thấy một gợn sóng nào trong vịnh. Không có một người nào. Băng ngang mặt nước
xám như tảng đá, một cảm giác vô cùng tĩnh lặng, bằng cách nào đó, nhìn rất yên
bình. Một lần nữa, bánh xe thời gian năm nay lăn chậm rãi.
(The New Yorker, ấn bản 11 tháng 4 năm 2022.)
(*) Cerberian là tính từ của Cerberus, trong huyền thoại Hy Lạp là con chó ngao ba đầu canh giữ cổng vào cõi chết.