Quận
lỵ cách nhà ngoại bảy cây số và có hai đường để đi về nơi đó: một con lộ đất chỉ
có thể đi bộ hoặc xe đạp và một con đường nhựa không rộng lắm xe lam có thể chạy
được. Những năm đầu thập niên 1960, cả hai lối đi về ấy đều mất an ninh vì bị
những người phía bên kia gài mìn và hầm chông dày đặc. Dân thường không ai dám
đi theo hai lối ấy. Bé con trở về quận lỵ với cha năm sáu tuổi để đi học sau
hơn năm năm ở với ông bà ngoại từ khi mẹ mất. Mỗi lần được theo một người bà
con về thăm ngoại trong vùng xôi đậu ấy cũng không khó, nhưng phải đi vòng vèo
bằng một lộ trình rất dài: từ nhà ờ quận lỵ đi xe lam theo quốc lộ 1 xuống một
quận lỵ khác, rồi từ đó đổi qua một xe lam khác vòng ngược lên một cái chợ xã,
xuống xe ở đó và đi bộ khoảng một cây số nữa thì tới nhà ngoại. Quãng đường dài
ấy thật ra cũng không an ninh lắm, thỉnh thoảng cũng bị người bên kia ra đắp
mô, những dù sao cũng còn đi được và đỡ nguy hiểm hơn hai con đường ngắn kia. Một
lần bà ngoại đưa bé con từ quê về lại nhà cha, cũng bằng cach đi vòng vèo ấy.
Hai bà cháu ngồi xe lam, chiếc xe lam thời ấy có mái che phía trước của tài xế
cong như mái che của xe ngưạ. Xe đang chạy ngon lành thì “cắc, bùm” , không nhớ súng nổ từ hướng nào,
chỉ nhớ bà ngoại năm đó đã ngoài sáu mươi tuổi, nhanh tay kéo bé con xuống núp
dưới bờ đất bên dưới đường với bác tài xế và những người khác cùng xe. Dứt tiếng
súng, mọi người lại lục tục lên xe đi tiếp, sợ hãi, bơ phờ, xơ xác... Tình trạng
ấy kéo dài, ngày càng khốc liệt hơn, quốc lộ 1 dẫn về Sài Gòn ngày càng nhiều bất
trắc hơn với những mô đất có gài mìn, nhất là khoảng sau Mậu Thân 1968 cho đến
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Sáu mươi năm hơn,
hình ảnh ấy lại trở về khi cô bé con, là tôi giờ đã là một bà già, đọc lại truyện
ngắn “Chuyến Xe” của nhà văn Kinh
Dương Vương. Hai hình ảnh không hoàn toàn giống nhau, bối cảnh cũng khác nhau,
nhưng có một điểm chung là sự bất an trong lòng, là nỗi lo hiểm họa luôn rình rập
trên đường. Đỉnh điểm của bất an là khi một cô bạn học cùng trường ở cùng phố
chợ, ngồi xe đò đi Sài gòn sáng sớm ngang qua một cái mô đất bị vướng mìn cụt hết
hai chân đến gối. Một chuyến xe khác đi qua một mô đất khác gần đó vào một bữa
khác cũng vướng mìn, và ông thầy dạy Pháp Văn bị miểng văng làm mù đôi mắt. Bạn
mười lăm tuổi, đóa hoa hàm tiếu xinh tươi, bỗng chốc mất đi đôi chân chim sáo.
Thầy mới rời trường đại học sư phạm về trường tôi nhận nhiệm sở chưa tròn năm,
trẻ trung phơi phới, bỗng chốc mù lòa! Tôi không có mặt nơi cô bạn cùng trường
bị mất hai chân hoặc nơi ông thầy dạy Pháp Văn bị mù đôi mắt, nhưng tôi nghĩ chắc
cảnh tượng cũng không khác là bao với những gì được mô tả trong “Chuyến Xe”. Tiểu tiết có thể khác ở từng
địa phương, nhưng khuôn mặt chiến tranh thì như nhau. Ở đó, tôi thấy lại những
hình ảnh không xa lạ gì với mình tử thuở thiếu thời.
Nhà
văn KDV viết :
Xe rời mặt đường chính rẽ
xuống con đường đất chạy vòng qua thửa ruộng lúa chín, mới đắp tạm thay thế
chiếc cầu bắc qua con rạch nhỏ bị sập.
Mấy ổng mới giật hôm qua đó Thiếu úy. Anh tài nhìn tôi nói.
Dưới bờ ruộng, một chiếc xe đò lật ngửa, đầu máy hư nát. Trên nền
sơn vàng một bên hông, hai chữ “Phúc Hưng” rực lên đỏ chói một cách khôi hài.
Chung quanh còn rơi rớt nào quần áo, dày dép lẫn những nén nhang tàn, gạo trắng
vung vãi, tro than giấy tiền vàng bạc… Một cái miễu nhỏ mới được dựng lên, gỗ
thông ván thùng đạn pháo binh còn mới. Bên trong đặt bình hoa ny-lông và một
bát nhang bằng cây chuối cắt khúc.
*
Lúc xe đổ
dốc đèo Phước Tượng, từ xa người ta đã trông thấy quang cảnh nhốn nháo chỗ chuyến
xe hỏa bị mìn. Đầu máy ngã chúi xuống con lạch nhỏ, những toa sau trật đường rầy,
lật nghiêng sang một bên, vài toa văng hẳn xuống ruộng. Các nạn nhân đã được
đem đi. Hành khách trên chuyến tàu đang khiêng hành lý, dắt díu, bồng bế, băng
qua một thửa ruộng thấp ngập nước, ra đứng lố nhố suốt một khoảng đường, thêm
dân chúng quanh vùng đến xem làm con đường bị tắt nghẽn. Xe lam đến rước khách
nổ máy vang trời, khói xăng un lên mù mịt. Người ta chen lấn, xô đẩy giành nhau
lên xe, tạo nên một cảnh tượng vô cùng hỗn độn.
*
Anh tài xế chỉ cho tôi coi chỗ mặt đường mới được sửa chữa:
- Tuần trước đó. Anh nói, giọng hơi lạc đi. Mới đầu một chiếc xe lam bị, đi bốn mạng. Chiếc xe nhà binh Mỹ tới không dám qua, gọi xe dò mìn. Nhưng đến nơi chưa kịp dò đã cán nổ một trái nữa, đi thêm năm con, vị chi là chín con cả thảy.
Thời
gian trong truyện “Chuyến Xe” của nhà văn KDV chỉ gói gọn trong một ngày, nhưng
tôi có cảm giác một-ngày-dài-hơn-thế-kỷ với biết bao sự kiện ngồn ngộn trong
đó, những sự kiện toàn máu và nước mắt và chết chóc.
Cũng máu và nước mắt và chết chóc là trong truyện “Phiên Chợ”. Sự dữ dội trong truyện không đến từ tiếng súng nổ haynhững bãi mìn làm máu thịt rơi tung tóe, mà từ những hình ảnh lướt qua trong cơn mê man hấp hối của người du kích - những hình ảnh chỉ toàn bi kịch của một phận người nhỏ nhoi u tối trong vùng xôi đậu, bị dẫn dụ đứng về phía bên kia.
(…) Cha mẹ gã, mặt mũi hốc hác, xanh xao như hai xác ma, áo quần rách nát, ướt
sũng thứ bùn đen quánh dưới đáy mồ, lỗ mắt, hốc mũi sâu hoắm, đen ngòm. Hai cái
đầu chỉ là hai mẩu sọ dừa khô còn bám những sợi tóc bạc. Hai người đến trước
mặt hắn run rẩy, khóc lóc, vén mớ vải rách tươm lên chỉ vào hai cái bụng xẹp
khô, để lòi hai bộ xương sườn, kêu đói: "Con cho ba mạ xin miếng cơm miếng
cháo. Con cho ba mạ xin tấm áo manh quần mặc cả lạnh." Nước mắt gã ứa ra,
chảy ròng ròng xuống má. Gã nhớ ra, từ ngày cha mẹ gã nhịn đói nhường cơm cho
gã ăn trong năm mất mùa, rồi vì cơn đói mà chết, đã mấy chục năm qua rồi, gã
không có chén cơm, nén nhang cúng bái. Gã đau đớn gào lên: "Ba ơi! Mạ ơi!
Con bất hiếu của ba mạ đây!" Gã chồm tới ôm lấy hai người, nhưng toàn thân
gã đau buốt, ngã quỵ xuống. Cha mẹ gã cúi xuống hôn lên mặt gã. Từ hốc mắt, mũi
dòi bọ lúc nhúc rơi ra, bò lổm ngổm. Bỗng hai bóng người dang ra xa, cười lên
sặc sụa - những tràng cười dài đầy hờn oán biến thành những mũi tên đen đâm vào
tim gã làm văng vung vãi những con bọ tanh hôi lên mặt gã. Hình ảnh hai bóng ma
mờ dần. Âm thanh giọng cười rùng rợn trôi xa, vang vọng trong một cõi sương mù
đen dày đặc…
(…) Thằng Ất mới lên tám
với bầy trâu của người chú họ lang thang trong những đồng cát bao la những ngày
nắng cháy mùa hè, những chiều mưa tầm tã giá buốt mùa đông… Nó quằn quại kêu
khóc trong những trận đòn trối chết khi có một con trâu đi lạc không tìm thấy.
Những đêm lùa trâu về muộn không dám hỏi cơm. Nó nằm ngủ trong chuồng với bụng
đói trên lưng vật, ôm lớp da lông lá để tìm chút hơi ấm. Người thím dâu đanh đá
mỏ dài mồm nhọn với đám con ác độc.
(…) Út, người con gái mồ
côi cùng xóm đã mang đến cho gã chút niềm tin và hy vọng. Một đêm mưa lũ hai
đứa bỏ nhà chủ trốn đi. Nàng đã cho gã con Bê và Cu Lộc… Một quả đạn oan nghiệt
đã cướp nàng ra khỏi đời gã. Một buổi sáng ngoài ruộng lúa. Út ngã ra quằn quại
trên vũng máu, một bàn tay níu lấy gã, tay kia còn giữ chặt nắm mạ chưa kịp
cấy. Nàng kêu tên gã, con Bê, thằng Lộc thảm thiết rồi tắt thở. Những giòng
nước mắt nóng hổi của gã tưới đầm đìa lên mặt Út…
(…) Anh Năm, người đàn ông
trong xóm đến khuyên lơn, an ủi gã, lo lắng chôn cất vợ gã chu đáo. Anh Năm nói
những lời dỗ dành hứa hẹn… gã không hiểu anh Năm nói gì, nhưng trong trí tưởng tượng
của gã vẽ ra một đời sống tương lai tuơi sáng. Trước mắt gã mở ra một thiên
đàng hạnh phúc: gã và các con sẽ sống một đời sung sướng, cơm no, áo ấm, trong
sự nhìn nhận và tôn trọng nhân phẩm của con người… Rồi gã bằng lòng nhận lãnh
những việc anh Năm giao phó. Gã say mê, tận tâm thi hành với lòng hoài vọng, tự
tha thứ…
(…) Những oan hồn thi thể không toàn vẹn ùa đến vây lấy gã kêu réo, khóc lóc đòi đền mạng… Lão trưởng ấp cụt đầu đứng sừng sững, tay bưng chiếc nón lá đựng cái đầu lão mắt còn mở nhìn gã trừng trừng. Ở khoảng cổ cụt hơi thở ra phun phì phì, máu sủi bọt reo lên như tiếng cười… Cô Lan có chồng đi lính Quốc gia bị gã hạ sát, tay bồng đứa con bào thai sáu tháng đỏ hỏn nét mặt buồn rầu, xanh xao, nhưng đôi mắt nhìn gã rực lửa căm hờn… Vô số những oan hồn già trẻ mà hắn chưa hề quen biết, đứt đầu, cụt tay, gẫy chân, mất nửa thân mình treo lơ lửng giữa từng không. Có cả vong hồn những đoạn đường, những chiếc cầu, những toa xe lửa, xe đò, xe lam… Tất cả vây quanh gã la hét, kêu gào, nguyền rủa như muốn ăn tươi nuốt sống gã. Gã hốt hoảng, vùng dậy chạy và bỗng thấy mình nhẹ hẫng như một làn khói. Gã la lên: "Tui không biết… Tui không biết… Không phải tui… Người ta xúi tui làm… Tui vô tội… Vô tội… Ối cha ơi… Mẹ ơi!" Gã chạy trốn đám oan hồn, lướt đi trên các ngọn cây, nóc nhà, băng qua vườn tược ruộng đồng, làng mạc, núi đồi, giòng sông chảy qua làng gã đang yên ngủ… Gã lướt đi như một cơn gió mỏng manh yên lặng. Những oan hồn đuổi nà theo gã bén gót. Bỗng giữa tiếng khóc than kêu réo đòi mạng ồn ào, gã nghe giọng vợ gã áo não vượt lên cao: "Ất ơi! Anh Ất ơi! Chờ em với… Anh ơi!" Gã bàng hoàng quay lại, xô ngã đám oan hồn, ôm chầm lấy vợ. Đám oan hồn đông vô số kể ào đến vây lấy gã. Một tay ôm vợ, một tay gã vung lên gạt đám oan hồn ra mở được một lối thoát, cắm đầu chạy miết. Bên nách, vợ gã rền rỉ: "Anh ơi! Con Bê! Thằng Lộc, mô rồi anh? Con chúng ta mô rồi?" Nhưng gã không còn nghe gì nữa, gã mãi lo tìm lối để thoát thân, chạy trốn đám oan hồn đang níu kéo. Trước mặt gã là một cõi tối tăm lạnh lẽo. Gã không còn thấy, còn nghĩ ngợi, gã ôm chặt vợ, lao vào khoảng tối đen mịt mờ…
Lòng
nhân ái, sự xót thương bất lực của viên chuẩn úy khi muốn đưa người du kích bị
thương nặng lên chuyến bay tải thương nhưng bị từ chối,và hai đứa con của người
du kích, bé xíu nhưng hiếu để và ngây thơ trước xác chết của cha, là một sự dữ
dội khác. Đó là người du kích đã ném quả lựu đạn làm người lính truyền tin của
anh chết ngay, rồi sau đó một tràng đạn M16 của một người lính khác trong cùng
toán quân bắn trả, và kết quả là người du kích bị thương nặng. Nó làm tim người
đọc nhói đau, không biết phải thương hay ghét người du kích, không biết phải đồng
tình với viên chuẩn úy non trẻ muốn cứu người du kích hay viên đại úy dày dạn
kinh nghiệm chiến trường muốn bỏ mặc người du kích vì anh ta đã giết (chắc
không phải một lần) những đồng đội của ông.
“Đường
Kiến”, với tôi, là tận cùng của dữ dội và phi lý của chiến tranh, là sự độc đáo
trong phát hiện và sử dụng chất liệu sống để viết thành truyện. Tôi không biết
ông KVD tự tưởng tượng ra một câu chuyện như Đường Kiến hay từ một sự việc có
thực nào đó. Mà dù nhà văn có dựa trên sự thật hay tự tưởng tượng ra được một
câu chuyện như Đường Kiến thì quả thật là xuất sắc! “Thông điệp” mà tôi tìm thấy
trong Đường Kiến là: những con vật nhỏ xíu như đàn kiến đã cứu sống con người
(người lính VNCH bị lạc giữa rừng già) nhưng con người (người du kích VC) đã giết
chết con người bằng những cái bẫy. Ôi con
người với con người, nhân danh gì để hủy diệt sự sống cùa nhau?(2)
Mở
đầu truyện là những câu chữ đầy ám ảnh:
Khu rừng không giấu nổi bộ mặt tàn nhẫn và thô lỗ. Nó không mang vẻ huyền hoặc quyến rũ của một thế giới chưa tỏ lộ. Màn bí mật bao trùm, che dấu những âm mưu thâm độc.
Nhưng mãnh thú và mãnh cầm không can dự đến việc gây cho chàng cái
cảm giác sợ hãi và kinh tởm, mà chính do con người.
Sau một thân cây, trên chòm lá rậm, dưới lớp cỏ mục khô. Mọi nơi,
Một nhát mã tấu
Một mũi tên độc
Một hầm chông
Một viên đạn bắn sẻ,
Cùng tự che giấu và xuất hiện bất thần để làm thành vô tri những thân thể đang chứa chan sinh lực, đưa những linh hồn xanh tươi, chưa hết ngỡ ngàng, trao cho lão già cầm liềm hái, ốm đau nhưng không bao giờ biết mỏi mệt trong công việc
Rồi
một ngọn lao tẩm thuốc độc của người phía bên kia trong chớp mắt đã giết Hoàng,
người bạn cùng đơn vị cùng lạc giữa rừng già với chàng. Đúng là cuộc đời dài bằng
một hơi thở, chớp mắt, như đức Phật đã nói. “Chàng”, nhân vật chính trong truyện, rơi vào một cảnh ngộ thê thảm
cùng đường.
Chàng không
còn lường được độ cảm xúc ở nơi chàng. Chàng không còn giữ nổi ý niệm về sự
phân cách tuyệt vọng giữa cõi sống và cõi chết. Giữa hai cõi đó không còn một
giới hạn rõ ràng nữa. Chàng lầm lẫn. Chàng tự hỏi: “Ta đang sống hay đã chết?”
Và điều đó đối với chàng chẳng có gì quan trọng. Nếu biết rằng chàng đang sống,
chàng cũng không vui gì hơn khi biết mình đang sống trong cõi chết. Chàng sờ
vào cái xác Hoàng cứng đơ, lạnh ngắt. “Xác Hoàng hay xác ta? Hoàng đã chết thật
hay Hoàng đang yên ngủ?”. Nhưng ngọn lao tẩm thuốc độc xuyên qua hông Hoàng kéo
chàng ra khỏi cơn mộng. “Hoàng thực đã chết rồi”. Thuốc độc đã thấm vào thân thể
Hoàng, cướp lấy sự sống của Hoàng một cách nhanh chóng. Chỉ bằng một chớp mắt.
Cõi sống và cõi chết được phân định sau một cái chớp mắt. Người ta không lường
được. Người ta không ngờ được và tưởng chừng như chàng đang nằm mơ. Nhưng giấc
mơ khi tỉnh dậy không thay đổi. Đó là sự thật.
Chàng
đã nghĩ, mình cũng sẽ chết đớn đau chết dần mòn vì đói khát. Nhưng đàn kiến, dấu
hiệu của sự sinh tồn, đã cứu chàng. Chàng cố bò lết theo đường đi của đàn kiến
đang mang vác từng hạt cơm từ gói cơm của một người du kích chết vì sụp hầm
chông của chính đồng đội anh ta. Chàng đến nơi, cái hầm chông ấy, cùng đàn kiến.
Chàng ăn nửa gói cơm gói bằng lá chuối đã bắt đầu có mùi thiu giắt bên hông xác
chết người du kích. Chàng uống một phần nước còn lại trong ống tre của người du
kích. Chàng hồi sinh diệu kỳ. Và chàng trả ơn người du kích bằng cách đào huyệt
chôn anh ta, một chi tiết rất nhân bản. Chàng làm việc này mà không câu nệ bạn hay
thù. Khi rời xác Hoàng để tìm đường sống, chàng yếu ớt vì đói khát đến nỗi
không đào nổi một cái huyệt nông cho Hoàng, đành lấy lá phủ lên xác bạn, tự an ủi
rằng dù sao thân xác Hoàng nằm lại cũng còn có một “lợi ích cuối cùng” nhờ cái
vòng tuần hoàn sinh học trong cõi người.
Hoàng chết
rồi, ta yếu đuối không thể chôn cất Hoàng tử tế được. "Những chiếc lá khô
nầy, che dấu mày. Hoàng ơi! Ta cầu mong rằng sẽ không có một con cọp đói đi qua
đây. Thịt xương mày rồi sẽ rã mục ra trong đất. Từ đó một đám cỏ xanh hay một
giống hoa nào sẽ mọc. Những con ong đến hút nhụy làm mật. Mật sẽ nuôi sống một
con gấu. Đó là sự lợi ích cuối cùng mày để lại trên mặt đất nầy…”
Bi kịch là chàng hồi sinh nhưng không được sống
tiếp tục để trở về với mẹ với vợ con, như trong cơn mơ mệt nhọc giữa rừng lúc
chàng lịm đi vì quá đói khát. Chàng chết trong lúc cúi xuống xác người du kích
để bỏ vào túi anh ta gói giấy tờ ghi lai lịch anh ta. Và mìn nổ. Và chàng tan
xác, với một bàn tay có đeo chiếc lắc bạc có chi tiết về nhân thân của chàng vắt
lên cành cây. Nhưng bi kịch chưa chấm dứt ở đó. Bi kịch khủng khiếp hơn là thân
phận thực sự của chàng bị đảo ngược vì sự tắc trách và vô tâm của người viết tin
trên báo chí sau đó: nhân thân của chàng bị thay đổi, chàng trở thành cái xác
du kích thứ hai. Như vậy chàng đã chết hai lần. Đất trời mênh nộng, ai cải
chính giùm chàng cái thân phận này! Chỉ trời đất biết, cỏ cây biết, nhưng trời
đất cỏ cây không biết nói...
Truyện
nào của KDV cũng dữ dội, và đôi khi kỳ dị, nhưng không phải chỉ có những chuyện
trực diện về chiến tranh. Các mối quan hệ giữa con người với nhau trong thời
chiến cũng quá xa khỏi mức bình thường trong truyện của KDV, và có khi rất tàn
nhẫn. Trong truyện “Thầy Thích” , mấy gã lính Mỹ hành hạ một em bé chỉ để làm
trò vui. Đứa bé sắp chết. Thầy giáo Thích can thiệp, dù yếu thế vẫn đánh nhau với
bọn lính Mỹ để cứu đứa bé. Thầy bị săn đuổi, trốn trên căn gác của mẹ. Và thảm
kịch xảy ra.
Trên căn gác Thích nghe rõ mọi chuyện, lật đật nhớm người lên thò
đầu ra ngoài cửa sổ. Từ đó anh có thể lòn người qua, nhảy xuống nóc chuồng heo
rồi phóng ra vườn chuối sau nhà trốn đi. Nhưng anh vừa lòn được nửa người ra
ngoài thì hai gã lính Mỹ bố trí bên hông nhà trông thấy. Một loạt đạn nổ dòn,
tiếp theo ngay tiếng lựu đạn chát chúa, miễng văng lên mái tôn ào ào như rải
sạn. Thích đứt lìa làm hai khúc. Nửa thân lòn ra ngoài nát vụn, phần còn lại
phía trong rơi xuống sàn căn gác tối om.
Gã lính Mỹ vừa dợm đặt chân lên thang lầu, nghe tiếng nổ vội nằm
xuống rồi vùng chạy ra. Hai gã gác ngoài vừa làm xong nhiệm vụ khoác tay nói:
- Xong xuôi. Tốt! Họ bấm đèn dọi lướt qua soi bức tường tung toé máu tươi, chảy xuống từng dọc, đọng lại ở chân tường. Trong chuồng, tiếng kêu ư ử của con heo bị thương lẫn trong tiếng nhai xàm xạp. Chung quanh xóm, mọi nhà đều tắt đèn đóng cửa kín mít.
Sáng hôm sau, người ta lùa mấy con heo mỏ đỏ máu ra khỏi chuồng. Đến trưa nửa phần thân thể còn lại của Thích, sau khi chính quyền đến làm biên bản, được đem xuống tẩm liệm với mấy mẩu xương vụn heo gặm còn sót lại trong chuồng, cùng một manh áo sơ mi rách nát đẫm máu và phân heo. Người lấy xác là bạn thân của Thích. Anh kể chuyện, trước khi đem xác bạn xuống anh có khấn vái xin phép vong hồn thầy giáo Thích. Vừa dứt lời thì từ trong nửa cái xác đã cứng lạnh máu tươi chảy ra lênh láng.
Điều kinh khủng là những con heo đã ăn phân nửa xác của thầy Thích bị rơi xuống. Người trong xóm nhiều ngày sau đó không dám ăn thịt heo... Điều nghiệt ngã nhất trong truyện là: thầy Thích có cha bị Việt Cộng chặt đầu, thầy bị lính Mỹ giết một cách thảm khốc, em gái thầy (cô Cúc) “nhảy núi” theo VC để trả thù cho thầy và mẹ thầy mất trí nói lảm nhảm suốt ngày sau cái chết của thầy. Cả một gia đình tan nát.
Hình
như với nhà văn KDV, chiến tranh là nguồn cơn của mọi bi kịch. Ở đó nhiều lúc
cái “con” lấn át cái “người” trong một con người và trong những con người. Truyện
“Những Chiếc Mặt Nạ Cười”, “Phiên Tòa” và “Lão Hạ” cho thấy rất rõ điều này.
Trong các truyện vừ a kể, các nhân vật chính ban đầu đều rất “người” nhưng càng
về sau đều trở thành “con”. Trong “Những Chiếc Mặt Nạ Cười”, cậu học sinh trung
học Thanh mơ mộng hiền lành ngày nào, từng ước mơ trở thành nhà thơ, đã biến
thành tên thẩm vấn viên ác quỷ ở trại giam. Trong “Phiên Tòa”, cùng đồng cảnh
ngộ lao công đào binh trong trại giam, nhưng hai kẻ có vị thế mạnh hơn một chút,
một chút thôi, đã hành hạ không thương tiếc những người bạn tù yếu thế hơn. Còn
lão Hạ, nhân vật chính trong truyện cùng tên, là một trường hợp dị kỳ (thực ra,
trong hầu hết các truyện ngắn của KDV đều có ít nhiều yếu tố dị kỳ, và chính nhờ
vậy mà truyện ông rất lôi cuốn). Lão Hạ là một người xẻ thịt heo và là người
bán thịt bình thường. Thị xã của lão bị cô lập do các trận đánh liên miên, nguồn
thực phẩm bị cắt đứt, dân trong thị xã bị đói kém trầm trọng. Đây là cơ hội để
lão nẩy ra ý tưởng làm một việc vô tiền khoáng hậu: xẻ thịt xác người chết vì
chiến tranh bị đánh cắp từ quân y viện và bán ra với “nhãn mác” thịt heo trong
cửa hàng thịt của lão! Tất nhiên lão bị bắt khi sự việc bại lộ. Tất nhiên lão
phải ra tòa, nhưng với một nhân dạng rất tiên ông đạo cốt rất “người”, trong
khi việc làm của lão thì rất “con”. Tòa án chưa xử xong thì lão Hạ đã chết vì bệnh.
Trước khi chết lão viết một bức thư dài gửi lại cho tòa
Bức
thư lê thê của lão Hạ gửi tòa án với những suy tư về chiến tranh, về những vấn
đề lớn và mang tính “hàn lâm” khác, có vẻ không không phù hợp lắm. Không riêng
gì truyện Lão Hạ, trong hầu hết các truyện của KDV, ông thường cho các nhân vật “phát ngôn” kiểu ấy và hay nói “triết lý”, một
kiểu suy nghĩ và phát ngôn không phù hợp với tính cách, nghề nghiệp, giai tầng
xã hội của họ. Có vẻ như nhà văn nghĩ và nói chứ không phải nhân vật nghĩ và
nói. Với tôi, đây là một điểm trừ ,dù truyện ngắn của KDV rất hay nhờ tính dữ dội,
dị kỳ và độc đáo. Phải, dữ dội, kỳ dị, độc đáo, và lôi cuốn. Đó là chưa kể ông
có những đọan tả cảnh đẹp như tranh vẽ, có lẽ vì ông còn là một họa sĩ.
NGỌC BÚT
Sài Gòn, 15.12.2022
(1) Tất cả các đoạn văn in nghiêng là trích đoạn từ các tác phẩm KDV
(2(2) Thơ NB