ĐỐ TRĂNG MẤY TUỔI TRĂNG GIÀ.
Đây là lời của nhạc sĩ Phạm Duy. Trước đó, ông đã đố lúa
mấy cây, sông mấy khúc, mây mấy tầng. Lại đố ai quét sạch lá rừng, đố ai biết
gió ở đâu nữa. Nhưng ông đố trăng mấy tuổi trăng già chỉ là “ để tôi lên tiếng
mặn mà yêu em “.
Kiểu đố này cũng có thể gặp ngay trong ca dao:
Đố ai đếm được
lá rừng
Đố ai đếm được mấy
tầng trời cao
Đố ai đếm được
vì sao
Đố ai đếm được
công lao Mẹ, Thầy.
Đố và đáp trước đây vốn là một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian khá phổ biến ở nông thôn, những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động. Ai cũng biết, cũng thuộc vài ba câu đố hoặc được nghe người khác đố. Những người có học lại phát triển câu đố qua hình thức văn thơ, đố bằng nói lái, lấy truyện Kiều ra đố, đố chuyện lịch sử… Thiết nghĩ tìm hiểu kỹ hơn về câu đố hẳn sẽ có nhiều điều thú vị.
Nhưng trước tiên, câu đố là gì? Câu đố lúc nào cũng có hai vế, lời đố và lời giải. Đó là một cuộc chơi sử dụng hình ảnh, từ và ý nghĩa, là một hình thức chơi chữ, nhằm mục đích giải trí tinh thần, người chơi chủ yếu sử dụng trí tuệ, óc phán đoán, lý luận, đó là một bài toán văn học. Nói gọn lại, câu đố là một sinh hoạt trí thức, cuộc đấu trí thi đua vận dụng trí thông minh của cả người đố lẫn người giải.
Vấn đề tiếp theo là câu đố được sử dụng trong hoàn cảnh nào? Ít nhất phải có hai người, nhiều thì năm bảy người, không ấn định số lượng. Và hỏi đố nhau cũng tuỳ lúc, tuỳ nơi, có khi đang đi trên đường, khi làm việc ngoài đồng ruộng, lúc nhàn rỗi ngồi tụm năm, tụm ba trên phản, ngoài hè… ra câu đố giải trí. Hoàn cảnh phổ biến hơn cả là buổi tối, sau khi ăn cơm, chưa đi ngủ, khi trời lạnh hay mưa, không có sinh hoạt giải trí nào khác, trong gia đình đủ hạng tuổi ngồi với nhau nghe kể chuyện cổ tích hay ra câu đố. Có thể đố câu đã nghe, cũng có thể nghĩ ra câu đố mới.
Nhưng, hỏi và đố nhau với mục đích gì? Tất nhiên để giải trí, như đã thấy ở trên. Mà đâu phải giải trí tầm thường vì cả người đố lẫn người giải đều phải vận dụng trí thông minh, óc lý luận, cả kiến thức mới ra được câu đố hay hoặc có lời giải hợp lý. Câu đố còn có mục đích giáo dục nếu hỏi về kiến thức lịch sử, thậm chí hỏi về những đồ vật xung quanh… Cũng chính vì lý do đó mà câu đố rất đa dạng, thiên biến vạn hoá, tuỳ trường hợp mà đố mà giải. Để tiện việc giải câu đố, người hỏi lắm lúc phải xác định: Là cái gì, là con gì, là hiện tượng gì, là ai, v.v. Có lúc người ta ghi là xuất, hỏi về cây là xuất mộc, hỏi cỏ là xuất thảo, hỏi người là xuất nhân…
Dưới đây là vài dạng câu đố hay gặp:
1. Đố về nhân vật lịch sử:
-
Vua nào mặt sắt đen sì?
Vua nào trong thuở hàn vi ở chùa?
Đáp: Vua
Mai Hắc Đế và Vua Lý Thái Tổ.
-
Đông
Du ai đã đưa người
Còn ai đập đá
giữa trời trơ trơ?
Đáp: Phan
Bội Châu và Phan Châu Trinh
-
Đố ai nêu lá quốc kỳ
Mê Linh đất cũ còn ghi muôn đời?
Yếm, khăn đội đá vá trời
Giặc Tô mất vía rụng rời thoát thân ?
Đáp: Hai bà Trưng
-
Đố ai trên Bạch Đằng Giang
Làm cho cọc nhọn dọc ngang sáng ngời
Phá quân Nam Hán tơi bời
Gươm thần độc lập giữa trời vang lên ?
Đáp: Ngô Quyền.
-
Đố
ai nổi sáng sông, rừng
Đã vui Hàm
Tử lại mừng Chương Dương
Vân Đồn cướp
sạch binh cường
Nồi bàng
mai phục chặn đường giặc lui?
Đáp:
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
-
Đố ai
gian khó chẳng lùi
Chí Linh mấy lượt nếm mùi đắng cay
Mười năm Bình Định ra tay
Thành Đông Quan, mất vía bầy Vương
Thông?
Đáp: Lê Lợi
-
Muốn cho nước mạnh dân giàu
Tâu vua
xin chém bảy đầu mạt dân
Mũ cao
áo rộng không cần
Lui về ẩn
chốn lâm sơn một mình?
Đáp:
Chu Văn An
-
Vì nhà vì nước giao tranh
Thanh
gươm, yên ngựa, phá thành đốc quân
Sa cơ
nào quản tấm thân
Mặc voi
dày xéo, chết gần chồng con?
Đáp:
Bùi Thị Xuân
-
Phò vua trải đã ba triều
Vào Nam,
ra Bắc, một điều tập trung
Bị
thương, thuốc giặc chẳng dùng
Nhịn ăn,
tìm cái chết hùng mà vinh?
Đáp: Nguyễn Tri Phương.
2. Cũng có khi đố về những người nổi tiếng trong giới văn chương.
-
Câu
đố về Tương Phố, tác giả bài thơ nổi tiếng Giọt lệ thu:
Chẳng có
đỗ cũng thành tương
Cũng mang
ra khắp phố phường
Thu về nước
mắt ròng ròng
Có chồng
rồi lại mất chồng như chơi
Gió mưa,
sông nước sụt sùi
Thế nhân
quên cả giọng cười Xuân Hương.
- Quyết tâm rửa sạch quân thù
Ô hô cặp mắt
công phu lỡ làng
(
Nguyễn Đình Chiểu )
-
Đem chuông lên đánh Sài Gòn
Để cho nữ
giới biết con ông đồ.
( Sương Nguyệt Anh )
-
Cái ấm còn cả nguyên vòi
Bày bán chợ
đời chỉ thấy người coi
Nếu đêm
lên bán chợ trời
Mấy nàng tiên
nữ cũng cười không mua.
Hỏi sao
người đẹp ỡm ờ
Thì ra
toàn những tiên cô tiên khồng.
(
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ).
-
Ngậm tăm đứng ở phương Nam
Giả danh
giả nghĩa đá vàng Trần Châu
Tiễn chồng
chẳng biết đi đâu
Đưa chồng
khẩu trầu nước mắt chứa chan.
( Á Nam Trần Tuấn Khải )
3. Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn :
- Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai
Bò la, bò liệt đố ai biết
gì? - (đáp: khoai lang).
- Con gì ở cạnh bờ sông,
Cái mui thì nát cái cong
thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)
- Cái gì bằng ngón chưn
cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái)
- Khi đi cưa ngọn, khi về
cũng cưa ngọn - (đáp: con ngựa)
- Miệng bà ký lớn, bà ký
banh
Tay ông cai dài, ông cai
khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai)
- Ông cố ngoài Huế ông cố
ai. (đáp : cái ô )
- Ông đánh cái chen, bà
bảo đừng. (đáp : cái chưn đèn - chen đừng ) .
4. Đố Kiều
Ai cũng biết Truyện Kiều.
Có điều có thể ít người biết là truyện Kiều còn có thể đem làm câu đố nữa.
Thử nghe vài câu:
-
Này chồng, này mẹ, này cha,
Này là em rể,
này là chị dâu
Là trái
gì?
( đáp:
trái đu đủ )
-
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có
duyên gì hay không.
( đáp:
trái mơ )
-
Trót
vì tay đã nhúng chàm
Cỏ phai mũ áo nhuộm non da trời.
( đáp: thợ nhuộm )
Đố Kiều theo dạng đối
đáp.
-
Truyện
Kiều anh đã thuộc lòng
Đố anh kể được hai dòng năm “ cho “
Đáp: Làm cho cho mệt cho mê
Làm
cho đau đớn ê chề cho coi !
-
Tiện đây hỏi thật một điều
Em đây chưa biết
nàng Kiều ai sinh.
Đáp: Hổ sinh
ra phận thơ đào
Nàng
Kiều hổ đẻ chớ
nào ai sinh.
-
Truyện
Kiều anh thuộc đã làu
Đố anh biết được
cô nào sinh đôi.
Đáp: Đầu lòng hai ả tố nga
Hai con đầu cả… ắt là sinh đôi.
-
Truyện Kiều anh đọc đã nhiều
Nhớ chăng đoạn nói nàng Kiều có mang.
Đáp: Đầy sân gươm tuốt sáng loà
Thất kinh nàng chửa…. hẳn là có mang.
-
Rằng:
Năm Gia Tĩnh triều Minh
Thuý Kiều có lấy thương binh
không chàng.
Đáp: - Một tay trời bể ngang tàng
Kiều lấy Từ Hải rõ ràng thương
binh.
- Một tay gây dựng sơn hà
Lấy chàng Từ Hải đúng là
thương binh.
-
Truyện
Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh kể được một câu bốn mình
Đáp: Oan kia theo mãi với tình
Một mình mình biết, một mình
mình hay.
-
Nỉ non
căn vặn đến điều
Tại sao lại bảo nàng Kiều sứt răng.
Đáp: Hở môi ra cũng thẹn thùng
Sứt môi nàng sợ chúng trông
bạn cười.
-
Thời Kiều đã có ngân hàng
Em đây chưa kể xin chàng chỉ cho.
Đáp:
Nhà băng đưa mối rước vào
Tiền nong thanh toán việc
nào chẳng xong.
-
Chày sương chưa nện cầu Lam
Đố chàng Kim Trọng xưa làm nghề chi.
Đáp:
Nàng ơi chớ hỏi thêm phiền
Xưa chàng Kim Trọng giáo
viên vỡ lòng
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau chân theo một vài thằng
con con.
-
Ai cắt buồng trứng đi rồi
Mà còn đẻ giống sinh nòi hở em?
Đáp: Hoạn bà bà Hoạn chứ ai
Hoạn rồi mà vẫn sinh nòi
Hoạn Thư.
-
Truyện
Kiều có mấy chữ bông
Anh mà kể được, tơ hồng xin trao.
Đáp: Truyện Kiều có bốn chữ bông
Anh mà kể hết, nhớ không quên
lời
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điệm một vài
BÔNG hoa.
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một và BÔNG
lan.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
Nách tường BÔNG liễu bay sang
bên nhà
Dưới trăng Oanh đã gọi hè
Đầu tường lửa lưu lập loè đâm BÔNG.
Hứa gì em có nhớ không.
-
Bây giờ em đố một bài
Anh mà giải được đôi hài em trao
Truyện Kiều kể lại tiêu hao
Hai câu anh kể làm sao hết Kiều?
Em đố anh lại giảng ra
Anh giảng chẳng được người ta chê
cười
Đôi hài của đáng mấy mươi
Bây giờ anh giảng em thời đem ra:
Trăm năm trong cõi người ta
…
Mua vui cũng được một và trống
canh.
5. Đố mẹo, chơi chữ:
-
Con gì đầu dê, mình ốc?
( Con dốc
).
- Tìm điểm sai
trong câu: Dưới ánh nắng sương long lanh khoe sắc thắm
( Khoe
sắc khoé ).
-
Từ gì mà 100% người Việt Nam đều phát âm sai?
( Từ “
SAI “ ).
-
Tại
sao khi bắn súng người ta lại nhắm một mắt?
( Vì
nhắm cả hai mắt không nhìn thấy mục tiêu )
-
Tại
sao ăn trộm thường nhìn trước nhìn sau rồi mới chun vào nhà?
( Vì
không thể nhìn hai hướng cùng một lúc được )
-
Khi nào 5 chia 3 bằng 2?
( Khi
ta làm sai )
-
Lịch
nào dài nhất? Lịch sử
-
Đường
nào dài nhất? Đường đời
-
Xã
nào đông nhất? Xã hội.
-
Quần
nào rộng nhất? Quần đảo.
-
Bệnh
nào bác sĩ bó tay? Bệnh gãy tay.
-
Bên
trái đường có một căn nhà xanh, bên phải đường có một căn nhà đỏ. Vậy nhà trắng ở đâu? ( Bên Mỹ ).
-
Tháng
nào có 28 ngày? ( Tất cả các tháng )
-
Tháng
nào ngắn nhất? ( Tháng ba, tháng tư ).
-
Cái
gì của người con gái lúc nào cũng ẩm ướt?
( Cái lưỡi )
-
Cái
gì Adam có 2 mà Eva chỉ có 1? ( Chữ
A ).
-
Cái gì
của người chồng mà người vợ thích cầm nhất?
( Tiền lương )
-
Cái gì
của người chồng mà chỉ người vợ mới dùng được?
( Cái tên )
-
Cái gì
đi thì nằm, đứng cũng nằm, nhưng nằm lại đứng? ( Bàn chân ).
-
Ở Việt
Nam, rồng bay ở đâu và đáp xuống ở đâu? ( Bay ở Thăng Long và đáp ở Hạ Long ).
-
Cắm
vào run rẩy toàn thân
Rút ra nước chảy
từ chân xuống sàn
Hỡi chàng quân
tử giàu sang
Cắm vào xin chớ
vội vàng rút ra.
Là cái
gì? ( Cái tủ lạnh ).
-
Ngả lưng cho thế gian nhờ
Vừa êm vừa ấm
lại ngờ bất trung.
( Cái phản
)
-
Việc
mình không phải việc ai
Nay làm
không hết thì mai sẽ làm.
(
Cái bàn - Bàn tới bàn lui. )
-
Khi
xưa em trắng như ngà
Bởi chàng ngủ
lắm nên đà em thâm
Lúc bẩn
chàng đánh chàng đâm
Đến khi rửa
sạch chàng nằm lên trên.
(
Cái chiếu )
-
Thân em xưa ở bụi tre
Mùa đông xếp
lại mùa hè mở ra.
( Cái
quạt )
-
Mẹ
không ý tứ vạy vò
Đẻ con sao
lại tréo giò lạ thay.
( Cái
kéo )
-
Có
sống mà chẳng có lưng
Có lưỡi có
mũi mà không có mồm.
( Con
dao )
6. Đố chữ.
Ngày trước có nhiều câu đố chữ Hán, nay ít người biết nên
bày ra đố chữ quốc ngữ:
-
Hai
người đứng bắt tay nhau
Chạm trán chạm
đầu mà chẳng chạm chân. - ( Chữ A ).
-
Tôi là con bố mẹ bò
Trước xê mà lại sau a mới kỳ. ( Chữ B ).
-
Bắc
thang xem hát phường chèo
Hỏi thang một
nấc mà leo nỗi gì. ( Chữ H )
-
Có cây mà chẳng có cành
Có trái cam
sành lơ lửng trên không. ( Chữ I ).
-
Một
ngang vắn, một sổ dài
Cùng mình
chết đứng, đố ngài đoán ra ( Chữ T ).
-
Cái
ly để giữa bàn tròn
Để lâu coi
lại vẫn còn như xưa ( Chữ Y - y nguyên ).
-
Đầu
bò mà gắn đuôi heo
Ai mà thấy
nó lăn queo tức thì
Đầu trâu mà
gắn đuôi nai
Trơ trơ như
đá không ai sợ nào ( Chữ Beo và chữ Trai
)
-
Con dê ăn cỏ bờ ao
Be be dứt tiếng, té nhào giơ
râu. ( Chữ Dao ).
-
Hai
anh kèm một chiếc ghe
Ở trên có sắc
thè lè bụng ra. ( Chữ Nghén ).
***
Câu đố rất phong phú và đa dạng, khó xác định ai là tác
giả. Cùng lời giải là Mặt trời, có rất nhiều câu khác nhau.
-
Trên
trời có một cái bông
Mưa sa thì
héo, nắng hồng thì tươi.
-
Quê
em ở thôn đông
Em đi lấy chồng
thôn Thượng thôn Tây
Em thời lên
xuống hàng ngày
Nhìn em ai
cũng mặt mày nhăn nheo.
-
Bằng
cái nồi rang
Cả làng phơi
thóc.
-
Cái
gì tròn vo tròn vỏ
Không nhuộm
mà đỏ
Đi miết cả ngày
Mà đứng một
chỗ.
Nếu đố mặt trăng thì thay đổi một chút:
-
Bằng
trang cái dĩa
Đêm xỉa xuống
ao
hay:
Tròn như cái
dĩa đêm xỉa xuống ao
Một trăm cái
cuốc mà đào chẳng lên.
-
Vừa bằng
cái vung
Vùng xuống ao
Đào chẳng thấy
Lấy chẳng được.
-
Mười
lăm mười sáu tốt bông
Đến ba mươi
tuổi không chồng chết queo.
-
Thuở
bé em có hai sừng
Đến khi nửa
chừng thì lớn bụng ra
Đến năm ba mươi tuổi già
Em nhớ lúc cũ lại ra hai sừng.
-
Đang xuân tôi mới lú sừng
Lớn lớn lưng chừng lại rụng sừng đi
Thần thông biến hoá một khi
Hai sừng mọc lại như thì đang xuân.
Kết hợp quan sát thực tế
với tưởng tượng mới nghĩ ra những câu đố như thế. Nếu không cho lời đáp trước e
cũng không dễ đoán ra.
Vài câu đố sau đây không
cho lời giải trước để thử tài người đọc:
-
Cong cong như thể cây cung
Ai lên cửu
trùng mà muốn bắc thang.
-
Sinh
ra liền, tử đi liền
Sinh ra các
xã, các miền đều trông.
Sinh ra không
chú không o
Sinh ra một
nó nằm co một mình.
-
Xanh
xanh đỏ đỏ vàng vàng
Bắc cầu thiên
lý, nằm ngang một mình.
Cả ba câu đó đều
có lời giải là Cầu vồng.
Ngoài ra còn có
câu đố về rừng ( Bao nhiêu thú dữ đều ở trong lòng ), về núi ( Sừng sững mà đứng
giữa trời
Trời xô
không đổ, trời dời không đi )
Lại có những câu nếu không nói trước là đố về cái gì thì
khó mà giải ra:
-
Trên
lông, dưới lông, tối lồng làm một.
hay:
-
Sông
tròn vành vạnh, nước đục lờ lờ
Cỏ mọc trên bờ,
thằng bé đứng chơi ở giữa.
-
Con
gì có đuôi có lông
Trẻ già trai
gái đều cùng mang theo.
Cả ba câu đều đố về con mắt đó.
Bên trên chỉ là những điều ghi nhận về Câu đố, không thể nào kể hết, nói hết được.
Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không nói thêm rằng Câu đố
không phải chỉ người Việt Nam chúng ta mới có. Ai biết tiếng Pháp cũng biết
trong ngôn ngữ đất nước hình lục giác cũng có câu đố, họ gọi là devinette,
cũng thú vị không kém.
-
Qu’est - ce qui voyage dans le monde entier tout en
restant dans un coin? ( Cái gì đi khắp thế giới trong lúc vẫn ở yên
trong góc. Đáp là con tem ( un
timbre )
-
Qu’est-ce qui augmente mais ne diminue jamais ? ( L’âge )
Cái gì tăng mà không bao giờ giảm ? ( Tuổi
).
-
Qu’est-ce qui ne peut pas parler mais répond quand on lui
parle? ( L’écho ). Cái gì không nói được
nhưng khi ta nói thì biết trả lời ( Tiếng vọng ).
-
J’ai un chapeau mais pas de tête, j’ai un pied
mais pas de chaussures. Qui suis-je ? (
Un champignon )
Tôi có mũ mà
không có đầu, có chân mà không có giày. Tôi là ai? ( Nấm).
-
Qu’est-ce qui a des pieds mais ne marche pas? ( Une
chaise )
Cái gì có chân mà không đi được? ( Ghế
)
-
Quand je mange, je grossis, quand je bois, je meurs. Qui
suis-je ? Le feu.
Khi tôi ăn, tôi mập ra, khi tôi uống,
tôi chết. Tôi là ai? ( Lửa. )
Cũng có những câu đố phải
đọc và hiểu ngay trong tiếng Pháp, không thể dịch được:
-
Qu’est-ce
qui se trouve une fois dans une minute, deux fois dans un moment, mais jamais
dans une heure? ( La lettre M ). ( Chữ M . Có một chữ trong minute, hai trong
moment còn heure thì không có chữ nào. )
-
Qu’est-
ce qui est à la fin d’un arc en ciel? ( La lettre L. )
-
Quel
mot contient une lettre? ( Enveloppe )
Đây là cách chơi chữ. Lettre có nghĩa là chữ
cái, cũng có nghĩa là bức thư. Enveloppe có nghĩa là phong bì.
-
Je
suis Franck, mais je ne suis pas Franck. Qui suis-je ? ( Son chien ).
-
Đây
cũng là chơi chữ, suis có nghĩa là “ là “, cũng có nghĩa là đi theo.
-
Je suis le commencement de tout et la fin de
tout. .Qui suis- je? ( La lettre T ) .
Chữ T bắt đầu và kết thúc chữ Tout.
Tương tự như thế, trong tiếng Anh câu đố được gọi là Riddle.
-
What has many teeth but can’t bite? ( A comb
).
Cái gì có nhiều
răng nhưng không cắn được? ( Cái lược ).
-
What
has words but never speaks? ( A book ).
Cái gì có nhiều từ mà không nói được ? Cuốn
sách.
-
What can fill a room buts takes up no space? ( Light. )
Cái gì có thể tràn đầy căn
phòng nhưng không chiếm chỗ? ( Ánh sáng).
-
What is always in front of you but can’t be
seen? The future.
-
What
has a neck but no head ? ( A bottle )
Cái chai có cổ mà không có đầu.
Và cũng có những câu đố
không dịch được, chỉ hiểu trực tiếp qua tiếng Anh thôi.
-
Where does today comes before yesterday? ( The
dictionary ).
( Trong từ điển, today có trước
yesterday ).
-
What building has the most stories? ( The library )
Đây là chơi chữ: story, stories vừa có nghĩa là tầng lầu, vừa
có nghĩa là câu chuyện.
-
What is 3/7 chicken, 2/3 cat, and 2/4 goat?
( Chicago ).
( Lấy 3/7 chữ chicken tức là
chi … )
-
What word is pronounced the same if you take away four of
its five letters? ( Queue ). Queue và Q đọc giống nhau.
-
What is the longest word in the dictionary?
smiles, because there is a mile
between each S.
Chữ smiles là chữ dài nhất vì hai chữ
S cách nhau tới một dặm ( mile ).
***
Đến đây có thể kết luận:
Câu đố là một trò chơi ngôn ngữ khá thú vị, không của riêng một dân tộc nào.
Truy tìm nguồn gốc sâu xa nhất có lẽ phải dẫn tới câu đố từ thần thoại Hy lạp, thường
được gọi là énigme de Sphinx. “ Con vật gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai
chân, chiều đi ba chân ? “ Lời giải là con người. Nhỏ phải bò, hai tay
và hai chân. Lớn đi vững trên hai chân. Về già chống gậy mới đi được, xem như
là ba chân.
Sphinx tức là Nhân sư, một
động vật thần thoại được thể hiện như một con sư tử nằm với một cái đầu người.
Nhân sư được cho là kẻ gác cửa vào thành Thebes Hy lạp, và đưa ra một câu đố bí
hiểm cho ai muốn vào thành. Đó là câu đố bên trên. Nhân sư bóp cổ ăn thịt tất cả
những người không thể trả lời. Chỉ có Oedipus giải được và trả lời là con người.
Câu chuyện kể tiếp rằng khi bị giải đố, Nhân sư tự lao mình xuống thềm đá và chết. Và cũng từ đó Oedipus có thể được công nhận là một nhân vật giúp tạo ra sự chuyển tiếp giữa việc thực hành tôn giáo cũ đại diện bởi cái chết của nhân vật Nhân sư, và sự trỗi dậy của giá trị mới, các vị thần Olympia.
Câu chuyện thần thoại về câu đố của Sphinx góp thêm phần thú vị cho những ghi nhận về câu đố Việt Nam. Mong rằng bài viết trên 3600 chữ này cũng mua vui được dăm ba phút cho người đọc bốn phương.
THÂN TRỌNG SƠN
( tháng 5 / 2023 )