1.
Phải trở về quê một chuyến xem thử chỗ ngồi bên gốc cây bàng trong khuôn viên chợ Quán Rườn nay có còn không? Chắc còn, và chẳng có gì thay đổi. Bởi vì Hạo đã ngồi ở đó suốt mười hai năm, ngày ngày ngắm ông đi qua bà đi lại, mỗi khi có ai xe đạp bị hư, bể ruột, cong niềng, trật ốc, dắt lại sửa thì anh mừng húm lên, bởi vì anh sẽ có được chút tiền công mang về cho ba đứa con đang đợi ở nhà.
Từ ngày ra khỏi trại tập trung, Hạo trở về đây, ngồi dưới gốc cây bàng này, sửa xe đạp. Dù ai có nói ra nói vào, "cha Hạo đã một thời là thiếu tá, từng làm tiểu đoàn trưởng chỉ huy lính đánh địch kinh hoàng, từng một thời có xe díp cần câu, có cận vệ chạy rần trời, thế mà nay thất thế, mười năm ở tù về, chả lại dám ngồi dưới gốc cây bàng sửa xe, thằng cha khùng, làm mất mặt bầu cua sĩ quan", Hạo nghĩ, "có gì mà mất mặt, đi ở tù, hốt phân tươi tưới rau, dòi bọ bò lổn ngổn, đi đốn gỗ, cuốc đất, tăng gia rau xanh, làm 'tà lọt' cho vệ binh, cho quản giáo, suốt mười năm, mà chả có lấy một xu tiền công, còn ăn đói nhịn khát, mặc rách. Bây giờ về, làm việc để kiếm miếng cơm chứ có gì mà mắc cỡ". Có người cho Hạo đã bị khùng nặng, ngơ ngơ ngác ngác. Họ cho rằng, sau khi đi tù về, vợ đã đi theo người khác, Hạo phải nuôi ba đứa con, nên Hạo bị "mát dây" là chuyện bình thường. Hạo lại nghĩ khác. Mình làm ăn lương thiện thôi, đem mồ hôi đổi lấy bát cơm, có gì mà mặc cảm.
Bây giờ thì anh quyết định trở về thăm quê, sau năm năm ở Mỹ. Các con anh đã lớn, đã đi làm, anh yên tâm và thấy mình may mắn. Năm năm anh đã trút bỏ đi một phần cái thân thể gầy còm ốm nhách của ngày ra đi. Anh đã mập lên, nước da hồng hào hơn, phổng phao hơn. Người ta nói vật chất đã làm thay đổi con người, đúng vậy, dinh dưỡng đầy đủ của xứ Mỹ đã biến anh ra một con người khác. Anh đã làm hết bổn phận với các con, nay anh phải tự lo lấy phần đời còn lại, cho nên anh dự định, sẽ tìm về quê, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà, tổ tiên, nhưng cốt lõi trong lòng anh là muốn về quê cưới một người vợ, rồi sẽ bảo lãnh vợ sang đây sống cùng anh, cho đời anh đỡ đi phần hiu hắt.
2.
Hạo đi chuyến bay China Airline, mang
theo hai vali quần áo cũ mà các con đã mua ở chợ trời, định sẽ đem về cho bà
con ở quê nhà, cùng với bảy ngàn đồng anh gom góp để dành suốt mấy năm ròng.
Anh nghĩ mình sẽ chi tiêu dè xẻn, cho anh cho chị, cho bà con mỗi người một ít,
còn lại anh sẽ làm mộ cho cha mẹ anh thật tươm tất. Và khi kiếm được người đàn
bà nào vừa ý như người chị hứa sẽ dắt cho anh xem mặt mấy mối, anh sẽ đem số
tiền còn lại làm quà cưới, tiệc cưới, chắc cũng tạm đủ, vì quê anh là một xóm
quê nghèo, cuộc sống lam lũ, dân chúng không ăn xài bao nhiêu.
Chị Nhường đón anh ở sân bay Tân Sơn
Nhất với nước mắt đầm đìa. Tánh của chị anh thật giống mẹ anh ngày xưa, ngày
anh đi lính, đi hành quân, lúc nào mẹ cũng cúng vái khấn nguyện, và cuối cùng
là khóc. Nước mắt vui, nước mắt buồn đều có cả. Bây giờ mẹ mất rồi mẹ để lại
cho chị Nhường hồ nước mắt ấy. Ngày anh cùng các con khăn gói đi Mỹ, chị khóc,
bây giờ anh trở về thăm chị, chị cũng khóc.
Anh loay hoay với mớ hành lý đem về. Ở
trên phi cơ, bà con đi về kháo nhau, cửa hải quan này cho 5 đô, cửa công an kia
cho 5 đô, cứ thế coi như đấm nắm xôi vào miệng chúng cho qua truông suông sẻ.
Hạo cũng làm theo, nhưng anh không ngờ bọn cò mồi đứng chỗ lấy hàng, bọn nó chỉ
lấy tay chỉ chỏ hay lấy tay xách hành lý cho khách mà không ai nhờ, cuối cùng
thì bọn chúng xin tiền, anh phải móc hầu bao nhưng lòng cứ ấm ức. Ðến khi đẩy
xe ra cửa phi trường Hạo mới thấy như thoát nợ. Chị Nhường nhận ra Hạo ngay khi
anh vừa mới ra khỏi khu cách ly. Chị vẫy tay lia lịa và kêu: "Hạo, Hạo,
cậu Hạo."
Hạo đến chỗ chị và ôm lấy chị. Năm năm mà chị già đi quá, mái tóc lưa thưa bạc, mắt có những vết nhăn, anh ứa nước mắt, chị khóc. Hai chị em đi ra chỗ chiếc taxi đã được chị thuê đậu phía bên ngoài. Hai chị em về khách sạn nghỉ một đêm, ngày mai mới đáp xe tốc hành thuê bao về quê nhà.
3.
Ngày Hạo đi quê của anh nghèo khổ, nay anh trở về quê vẫn không thay đổi gì mấy. Hai cây cầu có tên "Cầu Lỡ" vẫn lồi lõm từng nhịp, xe chạy qua gập ghềnh như đi xiếc, Ðã hai mươi lăm năm gọi là hòa bình và tái thiết đất nước mà những vết tích của chiến tranh, bom đạn và nghèo khổ vẫn trùm lên mỗi thân phận con người. Dọc đường từ ngã ba Chiên Ðàn lên đến chợ Quán Rườn, người dân đi bộ, đội những mớ rau, củ sắn từ miền quê xa xuống chợ bán vẫn còn.
Ðây là hình ảnh mà ngày nhỏ, cách đây
cũng ba bốn mươi năm, ngày anh còn là cậu học trò đi học ở trường Chiên Ðàn anh
đã thấy. Hình ảnh những người dân quê còm cõi đó vẫn ăn sâu vào lòng anh như
một tì vết của nghèo khổ. Anh đã từng cạn kiệt sức sống trong những trại tập
trung, đã từng lê tấm thân ngồi nơi gốc bàng vá từng lỗ vá ruột xe đạp để kiếm
miếng cơm củ khoai về nuôi con, nên anh biết rõ một điều là ai cũng mong có cơm
ăn áo mặc, mà đến ngày nay xem ra ước mơ ấy cũng chưa đạt được.
Xe chạy về đến nhà chị Nhường thì
trời cũng quá trưa. Ði một đoạn đường dài mất một ngày một đêm
mới tới. Các con cháu của chị Nhường đứng ở sân nhà chờ đợi. Chị
Nhường con đông đến bảy đứa, có mấy đứa lớn có vợ, có chồng, có con, tay
bồng tay bế đứng nơi sân đợi.
Và cả bà con lối
xóm nữa. Họ đứng lố nhố chung quanh sân. Chắc là họ muốn nhìn một người
đi Mỹ trở về ra sao?
Một người mà cách
đây năm bảy năm còn ngồi bên gốc bàng sửa xe đạp, ốm o gầy mòn, bây giờ đã thay
da đổi thịt, đã phổng phao thấy rõ.
Một người mà cách đây mười năm theo lệnh của công an xã, nhân dân đã tụ họp ra ngoài trụ sở uỷ ban để "giải chế" cho. Có nhiều ý kiến nói ra nói vào về "tội ác ngày xưa" của Hạo, khi anh còn làm tiểu đoàn trưởng. Nhưng cuối cùng thì theo "ý dân", anh được giải chế, nghĩa là chính quyền không còn quản chế anh nữa. Nay thì cũng đám dân đó đứng trước sân nhà anh đợi anh về, ngoắc tay, kêu lớn tiếng: "anh Hạo ở Mỹ về đó hả, anh khỏe ghê he."
4.
Hạo nói chị Nhượng
chia phần cho những người bà con thân sơ, mỗi người một lọ dầu gió xanh, năm
chục ngàn bạc VN, và một số quần áo cũ mà các con anh đã tìm mua ở chợ trời hay
các tiệm Goodwill. Với bấy nhiêu thôi, Hạo đã được tiếng đồn lành "ông
Hạo mới năm năm đi Mỹ, về mua quà cho cả làng". Ngày trước cách đây mười
mấy năm chứ có đâu xa, ngày Hạo được kêu lên xã "giải chế", trong một
đêm tối trời trong hội trường tỏa ánh sáng đèn măng sông, cũng những người dân
kia đã dơ tay cao, đã phát biểu những lời độc địa: "ông Hạo thuộc thành
phần ngụy dữ dằn, đã từng làm tiểu đoàn trưởng, chỉ huy quân ngụy đi càn biết
bao nhiêu trận, có tội rất lớn đối với nhân dân và cách mạng". Câu nói như
một vết chém đâm ngập vào tim Hạo, làm tâm hồn anh tê điếng, ám ảnh Hạo suốt
mấy năm ròng.
Cũng những người
đó hôm nay đến đây thăm anh, ai nhìn anh cũng khen anh khỏe mạnh, mập ra, da
thịt hồng hào. Thì ra cơm gạo tư bản dư dã quá, xứ sở người ta văn minh tiến bộ
quá, còn xứ sở mình thì đã hai mươi năm "giải phóng" mà người dân vẫn
ăn đói mặc rách. Hạo nghĩ, nếu không có cuộc ra đi thì chắc anh vẫn mãi ngồi
bên gốc cây bàng vá từng lỗ vá ruột xe đạp kiếm ăn, các con anh vẫn phải đi bán
cà rem dạo hay bán trà đá dạo, chứ có bao giờ nghĩ chúng sẽ được đi học đàng
hoàng
Chị Tửu, một phụ
nữ từng bỏ làng nhảy núi ngày chiến tranh, đã từng là trung đội trưởng du kích
xã, từng bị thương mất đi một mắt, bây giờ phục viên trở về làm ruộng, bị thiếu
ăn, đói lên đói xuống, bế đứa con gái ba tuổi đến nhà Hạo thăm.
Từ đàng xa chị Tửu
đã lên tiếng:
- Nghe nói anh Hạo
từ Mỹ về, tôi ghé thăm anh chút, ai cũng đồn về anh.
- Ðồn gì vậy chị
Tửu.
- Thì nói anh khỏe
mạnh, lột xác cũ đi.
- Vậy còn chị thế
nào, nay có khá không?
- Khá gì mà khá,
đói rã ra anh ơi. Từ ngày anh đi Mỹ tôi cũng nghỉ việc luôn, anh nghĩ tôi tàn
tật như vầy mà còn lao động gì được nữa, thế mà tôi có được cấp dưỡng gì
đâu.
Anh chạnh nhớ đến
chị Tửu ngày anh ra xã "giải chế", Tửu đã đứng lên phát biểu "Với
sự khoan hồng của cách mạng, xin chính quyền xã thôi không quản chế anh Hạo
nữa", điều này Hạo mang ơn chị Tửu. Dù gì thì trong những lúc
anh bị mọi phía xô anh xuống dưới bùn đen mà có người kéo anh lên. Hôm nay để
đền bù lại tấm lòng ấy, cùng với lòng muốn cứu giúp một người hàng xóm trong
cơn ngặt nghèo, anh lấy cho Tửu những món quà anh đem về và anh cho riêng chị
Tửu 100 đô la. Chị Tửu không ngờ mình được cho nhiều như vậy, chị quỳ xuống níu
lấy tay Hạo:
- Tôi không biết lấy gì để cảm ơn anh đây, quý hoá quá, quý hoá quá.
5.
Ðến ngày thứ năm
thì Hạo mệt mỏi quá rồi. Anh định về quê chơi một tháng để nghỉ dưỡng sức rồi
qua lại Mỹ tiếp tục "cày". Nhưng cái mục tiếp khách này anh thấy quá
mệt, những người ở đâu rất xa nghe anh về cũng ghé thăm để được anh cho một lọ
dầu, một ít áo quần cũ. Thì ra, tiếng lành thì đồn xa, cứ cái đà này, mỗi người
đến thăm anh, anh tiếp khoảng hai mươi phút thì anh cũng mệt ứ hơi rồi, huống
hồ gì có người ngồi hỏi anh đủ thứ chuyện.
Anh qua Mỹ mới năm
sáu năm, mà cả ngày quần quật trong hãng làm việc, có hôm hãng cho làm over
time thì anh đi từ sáng sớm đến tối mịt mới về nhà, chẳng biết trời trăng mây
nước gì cả, về đến nhà cũng không buồn mở tivi. Ở trong hãng anh làm assembly,
nghĩa là công việc sai đâu làm đó, sợ từ người chủ đến supervisor, sợ sẽ không
được lòng họ, sẽ không được lên lương, không được kêu làm thêm giờ.
Anh nhiều lúc tự cười với chính mình, tưởng qua Mỹ làm quan làm tướng gì, lại phải chun vào làm công nhân cấp thấp. Sợ mất việc, sợ xếp không vui nên ai cũng phải nói cười hỷ hả trong những lúc, những chuyện không đáng cười chút nào. Xếp đặt đâu làm đó, nhiều khi lại phải nói đệm thêm những câu cho xếp vui lòng. Anh chợt nhớ đến ngày anh còn làm tiểu đoàn trưởng, lúc còn "hét ra lửa", bọn lính thấy anh là sợ xếp vó, đang vui đùa, cười nói đó, thấy anh lại im ngay, họ phải vui theo cái vui của anh, buồn theo cái buồn của anh, quyền lực và đồng tiền vẫn ngự trị mãi trên đời này. Cuộc sống cứ như là một cái bóng, ở đầu này thì thấy đầu kia cao lớn, ở đầu kia thì ngược lại.
Nhân lễ cúng ông
bà ngày Hạo về cũng như cúng hai ngôi mộ cha mẹ anh vừa mới xây, anh đưa 500 đô
cho chị Nhường lo liệu một bữa tiệc mời dân cả xã đến dự. Chị Nhường đã thuê
hai cây dù lớn, che rợp cả một khoảng sân và cả khu vườn, cùng thuê bàn ghế kê
san sát để tiếp đãi khách. Trong lòng Hạo coi đây là một lễ tạ ơn, tạ ơn cha
mẹ, ông bà, đã cho gia đình anh được đi Mỹ, con cái có tương lai và đời sống
chính anh được sung túc hơn, với lại trong thâm tâm, anh cũng muốn nở mày nở
mặt với bà con lối xóm. Từ ngày đứt phim, gia đình anh tan hoang, anh em đều đi
tù, đều bị đày đọa. Nhưng bây giờ cả hai đều ở Mỹ, anh muốn cho
những người cán bộ xã ấp gọi anh là ngụy, nay phải thấy rằng điều anh chọn
lựa ngày trước là đúng đắn ...
6.
Khi lễ cúng gần
xong thì khách khứa cũng lục tục kéo đến. Toàn là những người bà con trong xóm,
trong làng ngày trước. Có người lúc anh gặp nạn thì xót thương giúp đỡ, có
người quay lưng, có người hận thù đòi đem anh ra xử trước tòa án nhân dân. Bây
giờ đã mười mấy năm trôi qua, mọi điều đã lắng xuống, cũng có một số người làm
ra vẻ cố quên.
Hạo ra đứng trước
cổng nhà để đón khách, gặp ai anh cũng vui mừng bắt tay thăm hỏi. Ai cũng dừng
lại với anh ít phút để hỏi người nọ người kia ở Mỹ hay ở Sài Gòn......
Những chức sắc
trong Ủy ban nhân dân và công an xã cũng kéo đến dự dù anh không mời. Có lẽ họ
nghe anh về và nghe bà con xôn xao bàn tán, họ muốn tới xem thực hư ra sao. Khi
tất cả đã vào bàn, thực khách tràn đầy cả một khoảng sân và khu vườn. Hạo đến
từng bàn chúc mừng khách, ai cũng níu anh lại làm một ly, dù chỉ nhấp môi cho
có lệ nhưng rượu cũng thấm làm anh choáng váng và bừng bốc. Khi anh đến bàn của
đám công an và ủy ban thì họ đồng loạt đứng dậy mời anh cạn ly. Anh thấy mặt
mày người nào cũng đỏ ửng vì men rượu.
Ông Trà, Chủ tịch
ủy ban cầm ly rượu lên mời anh:
- Mừng anh Hạo đã
trở về quê thăm bà con, tụi tôi mừng lắm.
- Thì đi lâu cũng
nhớ quê nên muốn trở về thăm. Ông Hữu, Trưởng công an xã, người đã từng quản
chế anh trong suốt ba năm, cũng cầm ly rượu đứng lên:
- Anh Hạo, tụi tôi
đến đây dự cùng anh hôm nay cũng có ý là, thứ nhất chia vui cùng anh, thứ hai
là nhờ anh cộng tác với xã để xây dựng một vài công trình mà xã đang còn bế
tắc.
Ðáng lẽ chuyện này
phải mời anh ra Ủy ban để nói, nhưng sẵn đây, anh em với nhau cả nói anh dễ
thông cảm hơn, xã nhờ anh chung góp một ít để làm cây cầu lỡ mà từ lâu ta không
làm được, biết anh ở Mỹ làm ăn dễ dàng với trình độ của anh cũng cao nên chắc
làm ăn khá.
Thôi thì xin anh
đóng góp cho mười ngàn đô cho công tác chung của xã chắc anh chẳng từ nan. Ông
Hữu nói một hơi dài, cái giọng vẫn còn cái giọng kẻ cả và ra lệnh, Hạo thấy như
quá đường đột, anh vẫn biết rằng về quê sẽ gặp những cảnh mồi chài tiền bạc
nhưng anh không ngờ anh đang ở trong một hoàn cảnh khó xử như thế này.
Anh tìm kế hoãn
binh:
- Các anh nói
chuyện đó đúng chớ, mình đi xa về phải góp phần xây dựng quê hương chứ anh,
nhưng đây là chuyện lớn mình phải có kế hoạch, mai mốt mình sẽ bàn nhiều hơn.
Hạo nói giả lã thêm mấy câu rồi anh tìm cách qua bàn khác sau khi anh nhận một tràng pháo tay dài của đám chính quyền. "Chu cha! Nó nghĩ như mười ngàn đô la làm ra ở Mỹ dễ dàng lắm vậy, sức như anh làm mười ngàn cả năm chưa chắc đã có mà còn biết bao nhiêu là chi phí, anh ky cốp, chắt bóp cả hơn năm năm mới được bảy ngàn mang về mà nay nó bảo đóng góp cho xã mười ngàn, làm như ở Mỹ đi ra đường là lượm đô la không bằng" Hạo vừa đi vừa chửi thầm trong bụng.
7.
Tối đó, xong công
việc mọi chuyện, Hạo mới khều chị Nhường ra ngoài bàn nói nhỏ:
- Em về đây làm mả
cha mẹ, thăm bà con như vậy cũng đủ rồi, hồi hôm bọn ủy ban còn muốn vòi tiền
để xây cầu, em kiếm đâu ra, em hứa cho qua chuyện. Thôi thì mai em đi, em vô
lại Sài Gòn chơi mấy tuần rồi đi Mỹ luôn, chứ ở đây không yên với họ đâu!
Chị Nhường hỏi
lại:
- Còn chuyện vợ
con em tính sao, chị đã nhắn con Lan lên rồi, nó là giáo viên, hơn ba mươi tuổi
chưa chồng, không đẹp nhưng hiền lành.
Hạo thấy chán nản
nên nói với chị:
- Em còn khoảng
năm trăm, đem về bảy ngàn mà lo công việc và cho bà con cũng gần hết, lại phải
vô Sài Gòn ở mấy tuần, thôi chị nói với Lan em qua Mỹ sẽ viết thư về.
Ðó là quyết định của anh, Hạo sáng hôm đó nhờ thằng cháu chở xuống bến xe rồi ra thẳng Ðà Nẵng mua vé máy bay về Sài Gòn. Chị Nhường vẫn khóc nhưng anh thì đi như một cuộc chạy trốn, anh không có thì giờ để nhìn lại gốc cây bàng ở ngoài chợ, nơi anh ngồi đó suốt bảy năm để vá xe đạp lề đường kiếm ăn. Thôi cái gì cũng nên gói cất trong ký ức.
Trần Yên Hòa