Văn Học Miền Nam là một nền văn học mà sau
lưng không có nghị quyết và trước mặt không có kẻ thù.
Nhân kỷ niệm 48 năm ngày 30/4, trong khi ngậm ngùi tưởng
niệm một đất nước đã bị mất, chúng ta đồng thời tưởng nhớ đến – và cũng để tự hào
- một thời văn học Việt Nam Cộng Hòa, hay nói cho gọn, Văn Học Miền Nam (VHMN).
Hàng chục năm qua, rất nhiều tác giả hải ngoại đã nghiên
cứu về VHMN như Thụy Khuê, Võ Phiến, Nguyễn Vy Khanh…Đặc biệt, vào tháng 12/2014,
một buổi hội thảo về VHMN đã được tổ chức tại Quận Cam với sự tham dự của nhiều
nhà nghiên cứu, nhà văn và nhà thơ từ nhiều nơi trên thế giới quy tụ về trong đó
có Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc, Du Tử Lê, Trương Vũ, Nguyễn Đức Tùng, Phùng
Nguyễn, Trần Doãn Nho, Hoàng Ngọc-Tuấn, vân vân. Trong bài viết ngắn này, thay
vì trích dẫn những tác giả hải ngoại, tôi đề cập đến ý kiến của một vài tác giả
(mà tôi cho là) tiêu biểu trong nước bàn về Văn Học Miền Nam.
Có thể nói, ngoài giai đoạn Tự Lực Văn Đoàn của thập
niên 1930, thời kỳ 1954-1975 ở miền Nam là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn
học trong lịch sử văn học nước nhà. Nhà nước cộng sản, tất nhiên, không chấp nhận
thực tế đó. Vừa chiếm xong miền Nam là họ tiến hành ngay chính sách bài trừ toàn
bộ nền văn học VNCH mà họ quy cho là văn hóa đồi trụy, thực dân. Nhưng theo thời
gian, cùng với âm nhạc, nền văn học đó vẫn âm thầm sống và rồi sống dậy một cách
mạnh mẽ, không những chỉ như một tài sản lịch sử quý giá, mà còn ảnh hưởng tích
cực đến chính nền văn học bị đảng và nhà nước chỉ đạo và chi phối một cách toàn
diện ở trong nước. Theo nhà thơ Hoàng Hưng, một trong những người thành lập
trang mạng Văn Việt, thì:
“Sự tiếp xúc với Văn Học Miền Nam trước 1975
đã tạo bước ngoặt quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của
nền văn học ‘chính thống’ miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của
nó đã dần dần ‘tẩy rửa’ thói quen ‘tự kiểm duyệt’ và ‘phục vụ chính trị’, giáo
điều ‘hiện thực xã hội chủ nghĩa’… vốn ngấm sâu vào tâm trí của thế hệ cầm bút
‘chống Pháp chống Mỹ’. Chắc chắn nó đã khởi hứng cho những ý tưởng thay đổi mạnh
mẽ của vài nhà lãnh đạo văn nghệ cuối thập niên 1970 như Trần Độ, Nguyên Ngọc…
và của nhiều cây bút thành công từ sau khi có chính sách ‘Đổi mới’ cuối thập
niên 1980. Hầu hết những cây bút trẻ hiện nay ở Việt Nam đang đi theo tinh thần
ấy.”[1]
Sức sống
tiềm tàng của văn học miền Nam buộc nhà nước cộng sản phải thay đổi thái độ. Những
luận điệu bôi bác, phủ nhận Văn Học Miền Nam của những người như Lê Đình Ky, Trần
Trọng Đăng Đàn hay Đỗ Đức Hiểu[2] càng ngày
yếu dần, cuối cùng, lặng lẽ biến mất. Trong bài viết “Ứng xử với văn học học miền
nam trước 1975” trên “Nhân Dân cuối tuần” (13/9/2016),[3] cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản, tác giả Hạnh Nguyên cho biết,
“Khoảng 10 năm
trở lại đây, quan điểm ứng xử đối với văn học miền nam trước 1975 đã có nhiều
thay đổi tích cực.(…) Hoàn toàn có thể nói đến một nhu cầu đọc lại, đánh giá lại,
giới thiệu, phổ biến trở lại một số giá trị của văn học từng bị coi là “bên kia
chiến tuyến”. (…) “Từ chỗ bị phê phán gay gắt, bị loại bỏ,
cấm phổ biến, văn học miền nam dần dần đã được coi là một bộ phận không thể
tách rời của văn học Việt Nam, được xuất bản và nghiên cứu nghiêm túc.”
Tuy nhiên, những
bài viết như thế này chỉ nói một cách chung chung, không hề nêu lên yếu tố nào đã
khiến họ phải quay một góc gần như 180 độ đó. Giới quan chức lãnh đạo văn hóa cộng
sản muốn tránh trút một sự thực: Văn Học Miền Nam là sản phẩm tự nhiên và tất yếu
của một chế độ dân chủ tự do là Việt Nam Cộng Hòa.
Dẫu vậy, một số nhà nghiên cứu văn học trong nước, tuy vẫn còn dè dặt, cũng
đã thẳng thắn thừa nhận mối liên hệ tất yếu giữa sự phát triển của văn học miền
Nam với chính bản chất của chế độ miền Nam. Theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, văn học miền Nam là một “nền văn học tồn
tại trong một xã hội dân sự dựa trên tiêu chí: sự gắn bó, tương tác công
khai, tự nguyện giữa tác giả và độc giả, giữa hoạt động sáng tạo và hoạt động
tiếp nhận mà không chịu bất kỳ sự áp đặt hay mệnh lệnh hành chính nào.”[4] “Không chịu bất kỳ sự áp đặt hay mệnh
lệnh hành chính nào”, nghĩa là tự do, không bị đảng và nhà nước kềm chế kiểu miền
Bắc.
Trong số những nhà nghiên cứu về VHMN, Huỳnh Như Phương là người đưa ra một
đánh giá cụ thể và tích cực. Trong bài nghiên cứu công phu có tựa đề “Chiến tranh, xã hội tiêu thụ và thị
trường văn học miền Nam 1954 –
1975”,[5] đăng
trên tập san “Nghiên cứu Văn học”, một trong những cơ quan
nghiên cứu văn học hàng đầu của nhà nước cộng sản, ông nêu lên một số lý
do được xem là bối cảnh của sự phát triển văn học ở miền Nam. Xin tóm lược như
sau:
Tư nhân làm chủ: Ngành xuất bản sách báo
phong phú và đa dạng hầu hết là của tư nhân. Có rất nhiều nhà xuất bản những tên chịu ảnh
hưởng Tây phương như Thời Mới, Đêm Trắng, Ngưỡng Cửa…; đồng thời có nhiều tên
mang tính chất Đông phương như Lá Bối, An Tiêm, Lửa Thiêng, Ca Dao, Hoa Tiên,
Nam Sơn, Phù Sa, Đồng Dao, Mặc Lâm, Kẻ Sĩ, Cảo Thơm, Tao Đàn, Bến Nghé, Huyền Trân,
Nam Chi Tùng Thư, Đại Nam Văn Hiến… Lại có nhà xuất bản mang tên của chính chủ
nhân: Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Đình Vượng, Phạm Văn Tươi, Phạm Quang Khai. Họ
xuất bản sách không dựa theo sự chỉ đạo của nhà cầm quyền mà dựa vào sự cạnh
tranh bằng cách tạo uy tín qua những đầu sách về khảo cứu, sáng tác hay dịch
thuật đáp ứng với nhu cầu của độc giả.
Mạng lưới phát hành sách báo rộng
rãi: tuy gặp nhiều trở
ngại về giao thông do chiến tranh, nhưng mạng lưới cũng đã đưa được nhiều ấn
phẩm đến những vùng xa Sài Gòn như các
tỉnh miền Tây và miền Trung. Vì thế, những độc giả hiếu học ở các tỉnh lỵ cũng
có thể đọc được đủ loại sách báo xuất bản ở Sài Gòn, kể cả những kiệt tác văn
chương của các tác giả đoạt giải thưởng Nobel ở các hiệu sách.
Quan niệm hiện đại về báo chí của
giới làm báo: đề cao việc thông
tin chính xác và kịp thời, coi trọng tính khách quan của báo chí, thông qua
việc giao tiếp, cộng tác với những nhà báo nước ngoài của các tờ báo lớn và các
hãng tin nổi tiếng như AP, AFP, UPI, BBC, Reuters… thường xuyên có mặt ở Việt Nam.
Công nghệ in ấn tân tiến: từ in typo chuyển dần sang in offset
với những máy in hoạt động với năng suất cao.
Tự trị đại học: do ý thức xây dựng một nền văn học và giáo dục khai
phóng, theo tinh thần mở rộng về giao lưu văn hóa, cho nên tuy
là một chế độ chống cộng sản, nhưng tư tưởng của chủ nghĩa Marx vẫn được giảng
dạy ở các trường đại học từ nhãn quan của các học giả phương Tây. Ngoài ra, những trào lưu sáng tác, những trường
phái triết học, mỹ học, nghiên cứu và phê bình văn học được giới thiệu khá
phong phú và cập nhật.
Sự trung thực của các cơ sở báo chí và xuất bản: đã giúp người đọc miền Nam nhìn rõ hơn xã hội ở chung quanh mình, đã liên kết những người thiện chí trong một nỗ lực vận động cho hòa bình, tự do, độc lập dân tộc và một nền văn hóa văn nghệ tiến bộ, cho thấy mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt, sinh hoạt văn hóa miền Nam không có tính chất một chiều mà còn có những mầm mống của dân chủ, thông qua tiếng nói phản biện và phản kháng.
Đánh giá chung VHMN, Huỳnh Như
Phương nhận định: “Trong đời sống văn học miền Nam, những sáng
tác và công trình nghiên cứu chứa đựng những yếu tố dân tộc, nhân đạo, dân chủ
và cách tân, xuất hiện trên cái nền của hoạt động báo chí và xuất bản rất đa
dạng và phức tạp của nhiều khuynh hướng khác nhau về tư tưởng cũng như về nghệ
thuật. Giữa các khuynh hướng đó không có ranh giới tuyệt đối, mà có sự giao
thoa, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau. Sách báo thân chính quyền cũng có lúc
ấn hành những tác phẩm đả kích quan chức của chế độ, thậm chí bị tịch thu. Sự chuyển
biến của sách báo khuynh tả cũng là một quá trình từ tự phát đến tự giác. Trên
một tờ báo hay một nhà xuất bản có thể xuất hiện những cộng tác viên đối lập
nhau về lập trường chính trị và quan điểm văn học.”
Ngoài Huỳnh Như Phương,
một trong những học giả dành khá nhiều công sức nghiên cứu và tổng kết một cách
đầy đủ và chi tiết bức tranh văn nghệ miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 là tiến sĩ
Trần Hoài Anh. Theo học giả này, “Lĩnh vực nghiên cứu
về văn học miền Nam mà trọng tâm là bộ phận lý luận phê bình văn học miền Nam
trước 1975 cũng là lĩnh vực mà tôi chọn lựa dấn thân nghiên cứu. Đây cũng là đề
tài luận án tiến sĩ của tôi đã bảo vệ thành công tại Viện Văn học Việt Nam với
một tâm nguyện làm thế nào để bảo tồn một di sản văn học nước nhà như tôi
đã từng khẳng định trên báo chí trong nước khi trả lời phỏng vấn: Văn học miền
Nam 1954-1975 là một di sản quí báu của văn học dân tộc.”[6]
Tôi đã có dịp đọc một số bài viết của
Trần Hoài Anh đăng tải trên mạng:
- Khuynh hướng lý luận - phê bình
văn học ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo ở miền Nam trước 1975
- Nhất Linh trong sự tiếp nhận của
văn học miền Nam 1954 -1975
- Thơ Mới và sự hiện hữu trong
văn học miền Nam 1954 -1975
- Nhà văn Võ Hồng và sự hiện hữu trong đời sống văn học miền
Nam 1954-1975
- Quốc văn Trung học Đệ nhị cấp ở
miền Nam trước 1975
- Bùi Giáng trong cái nhìn của
các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975
- Người đọc trong quan niệm của
lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975
vân vân.
Tuy không có điều kiện tiếp cận những
công trình nghiên cứu chính yếu của Trần Hoài Anh, nhưng qua những gì đọc được,
tôi nhận thấy ông đã có một nhãn quan rộng rãi, cởi mở và khách quan về nhiều mặt
đối với nền văn hóa miền Nam dưới chế độ VNCH, khác xa và thậm chí ngược hẳn lại
với cách đánh giá VHMN theo quan điểm nhà nước chính thống. Trong
bài viết đề cập đến triết lý giáo dục của chế độ VNCH, ông nhận xét:
“Như vậy, có thể nói, với triết lý giáo dục này [Nhân
bản, Dân tộc & Khai phóng], nền giáo dục ở miền
Nam 1954-1975 là nền giáo dục mang tính nhân văn sâu sắc. Bởi, đây là nền giáo
dục lấy sự “khai phóng” con người làm cảm hứng cho mọi sáng tạo và xây dựng
nhân cách người học trong nhà trường. Đây cũng là nguyên tắc bất biến, chi phối
việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa, giáo trình ở tất cả các bộ môn,
trong đó có bộ môn Quốc văn. Giáo dục tính nhân văn, vì thế, đã trở thành một
phẩm tính trong chương trình Quốc văn Trung học Đệ nhị cấp ở miền Nam trước
1975.”[7]
Đây là một cái nhìn hiếm thấy của một
nhà nghiên cứu hiện đang sống và làm việc ở trong nước.
Mới đây, trong một bài viết khác về VHMN (6/2022), Trần Hoài Anh khẳng định, “Với một thể chế chính trị đa nguyên, chấp nhận mọi sự khác biệt nên ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã hình thành một nền văn học khá cởi mở. Sự cởi mở ấy không chỉ thể hiện ở việc tiếp nhận nhiều hệ hình lý thuyết của các nền văn hóa Đông, Tây và văn hóa Mỹ mà còn thể hiện ở việc tiếp nhận một cách khách quan, công bằng, khoa học đối với giá trị của nhiều hiện tượng văn học, trong đó có tác phẩm của các nhà văn /thơ thời Tiền chiến và thời kháng chiến chống Pháp đang sống, làm việc ở miền Bắc…” (…) Rõ ràng qua những tư liệu này có thể xác quyết trong giai đoạn 1954-1975, cho dẫu đất nước bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, nhưng trong văn học miền Nam hình như không có “vĩ tuyến” đó. (…) Đây là một vấn đề cần được khẳng định trong văn học miền Nam 1954-1975 mà dường như lâu nay đã bị “chôn vùi” bởi những định kiến thiển cận về văn học miền Nam ở một thời không xa khi cho rằng, đây là bộ phận văn học “đồi trụy” “phản động” mà không thấy được ‘Tinh hoa của văn học dân tộc’ vẫn tiềm ẩn trong bộ phần văn học nầy.”[8]
Tóm lại, các trích đoạn tiêu biểu về Văn Học Miền Nam trên đây của các tác
giả Hoàng Hưng, Lại Nguyên Ân, Huỳnh Như Phương và Trần Hoài Anh cho thấy Văn Học
Miền Nam đã phát triển dựa trên các yếu tố khách quan:
- tinh thần tự do, nhân bản và cách tân.
- xã hội dân sự: sự gắn bó,
tương tác công khai, tự nguyện giữa tác giả và độc giả, giữa hoạt động sáng tạo
và hoạt động tiếp nhận mà không chịu bất kỳ sự áp đặt hay mệnh lệnh hành chính
nào.
- sự hiện diện của nhiều khuynh hướng
khác nhau về tư tưởng cũng như về nghệ thuật.
- thể chế chính trị đa nguyên.
Dù chưa hẳn đầy đủ, nhưng cách nhìn mới mẻ và tiến bộ này là một đóng góp quan trọng trong quá trình thừa nhận giá trị đích thực của nền văn học thời Việt Nam Cộng Hòa.
Văn Học Miền Nam (1954-1975), tuy tồn tại trong một thời
gian rất ngắn ngủi trong chiều dài lịch sử của dân tộc, nhưng là một trong những
thành tựu lớn, nếu không muốn nói là lớn nhất, của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
“Nếu văn học miền Bắc là đơn nhất, là một khối, một tảng và chỉ là một công cụ bảo vệ chế độ
thì ngược lại, Văn Học Miền Nam là một thứ kính vạn hoa. Nó soi rọi từng chân
dung, từng số phận, từng hoàn cảnh, từng ngóc ngách của cuộc sống. Do đó, nó không
thể trở thành công cụ của nhà cầm quyền; không những thế, trong rất nhiều trường
hợp, lại là một đối trọng với nhà cầm quyền. Cũng như giòng sông, nó chảy; cũng
như cánh rừng, nó mọc, nó ra lá trổ hoa. Đó là một nền văn học mà sau lưng
không có nghị quyết và trước mặt không có kẻ thù. Nó tự nhiên như nhiên. Như một
con chim thả bay ngoài trời hay những bông hoa nở ngoài đồng nội.”[9]
Văn Học Miền Nam sống mãi với dân tộc!
TRẦN DOÃN NHO
(Viết nhân ngày 30/4/2023)