Tiểu sử chi tiết: https://www.annie-ernaux.org/biography
Nhà
văn, giáo sư dạy văn chương. Sinh quán tại Lilllebonne
Normandy. Học đại học Rouen và Bordeaux, tốt nghiệp về văn chương năm 1971. Dạy
học tại các đại học ở Bonneville, Annecy-le-Vieux, và Pontoise. Sau đó,
tham gia vào National Centre for Distance Education suốt 23 năm.
Kết hôn với Philippe Ernaux, có hai con trai. Ly dị đầu thập niên 1980. Hiện sinh sống tại Cergy-Pontoise, ngoại ô Paris.
Tác phẩm:
Les
Armoires vides, Paris, Gallimard, 1974; Gallimard, 1984. / Cleaned out.
Translated by Carol Sanders. Dalkey Archive Press. 1990. / Ce qu'ils disent ou
rien, Paris, Gallimard, 1977; French & European Publications, Incorporated,
1989. / Do What They Say or Else. Translated by Christopher Beach and Carrie
Noland. University of Nebraska Press. 2022. / La Femme gelée, Paris, Gallimard,
1981; French & European Publications, Incorporated, 1987. / A Frozen Woman.
Translated by Linda Coverdale. Four Walls Eight Windows. 1995. / La Place,
Paris, Gallimard, 1983; Distribooks Inc, 1992. / La Place. Translated by Tanya
Leslie. Psychology Press. 1990. / A man's place. Translated by Tanya Leslie.
Seven Stories Press. 1992. / Une Femme, Paris, Gallimard, 1987. / A Woman's
Story. Translated by Tanya Leslie. Seven Stories Press. 2003. / Passion simple,
Paris, Gallimard, 1991; Gallimard, 1993. / Simple Passion. Translated by Tanya
Leslie. Seven Stories Press. 2003. / Journal du dehors, Paris, Gallimard, 1993.
/ Exteriors. Translated by Tanya Leslie. Seven Stories Press. 1996. / La Honte,
Paris, Gallimard, 1997[39]
Shame,
Translator Tanya Leslie, Seven Stories Press, 1998. / Je ne suis pas sortie de
ma nuit, Paris, Gallimard, 1997. / I Remain in Darkness. Translated by Tanya
Leslie. Seven Stories Press. 1999. / La Vie extérieure : 1993-1999, Paris,
Gallimard, 2000
Things
Seen. Translated by Jonathan Kaplansky. University of Nebraska Press. 2010. /
L'Événement, Paris, Gallimard, 2000. / Happening. Translated by Tanya Leslie.
Seven Stories Press. 2001. / Se perdre, Paris, Gallimard, 2001. Getting Lost,
Translator Allison L. Strayer, Seven Stories Press, 2022
L'Occupation,
Paris, Gallimard, 2002. / The Possession. Translated by Anna Moschovakis. Seven
Stories Press. 2008. / L'Usage de la photo, with Marc Marie, Paris, Gallimard,
2005
Les
Années, Paris, Gallimard, 2008. / The Years. Translated by Alison L. Strayer.
Seven Stories Press. 2017. / L'Autre fille, Paris, Nil 2011. / L'Atelier noir,
Paris, éditions des Busclats, 2011. / Écrire la vie, Paris, Gallimard, 2011. /
Retour à Yvetot, éditions du Mauconduit, 2013. / Regarde les lumières mon
amour, Seuil, 2014. / Mémoire de fille, Gallimard, 2016. / A Girl's Story.
Translated by Alison L. Strayer. Seven Stories Press. 2020. / Hôtel Casanova, Gallimard Folio, 2020. / Le
jeune homme, Gallimard, 2022.
Giải thưởng:
1977 Prix d'Honneur for Ce qu'ils disent ou rien. / 1984 Prix Renaudot for La Place. /2008 Prix Marguerite-Duras for Les Années. / 2008 Prix François-Mauriac for Les Années. / 2008 Prix de la langue française for the entirety of her oeuvre. / 2014 Doctor honoris causa of Cergy-Pontoise University. / 2016 Strega European Prize for The Years (translated into Italian as Gli Anni (L'Orma). / 2017 Prix Marguerite Yourcenar, awarded by the Civil Society of Multimedia Authors, for the entirety of her oeuvre. / 2018 Premio Hemingway per la letteratura for the entirety of her oeuvre. / 2019 Prix Formentor. / 2019 Premio Gregor von Rezzori for Una Donna (Une Femme). / 2019 Shortlisted for the International Booker Prize for The Years[. / 2021 Elected a Royal Society of Literature International Writer. / 2022 Nobel Prize in Literature.
Nobel Và Nữ Quyền
Annie
Ernaux, nhà văn người Pháp 82 tuổi, đoạt giải Nobel văn học năm 2022, có lẽ được
biết đến nhiều nhất ở Hoa Kỳ với cuốn sách phát hành năm 2000
"Happening", ghi lại trường hợp nạo phá thai bất hợp pháp mà bà đã trải
qua, vào năm 1963 ở tuổi 23 và là nguồn cảm hứng cho bộ phim cùng tên của
Audrey Diwan. Bộ phim đã được phát hành vào tháng 5 vừa qua, không lâu trước
khi Tòa án tối cao pháp viện Hoa Kỳ kết thúc gần nửa thế kỷ Quyền bảo vệ sinh sản
của liên bang bằng cách lật ngược Roe vs. Wade. (Tin msn, David L. Ulin,
ngày 6 tháng 10 năm 2022.)
Dù
sau khi cải cách, Hàn Lâm Viên Thụy Điển đã nỗ lực tuyên bố giải Nobel văn học
đánh giá trên giá trị văn chương, nhưng câu hỏi vẫn được nêu ra: Giá trị văn
chương và ảnh hưởng chính trị có biên giới ở đâu? Như trường hợp giải Nobel năm
2016, trao cho nhạc sĩ Bob Dyland. “Một nhạc sĩ kiêm nhà viết ca khúc, không
phải tác giả. Mặc dù ông đã viết một hồi ký rất hay, một tập thơ dở và một bài
diễn văn về The Eagles Woman.” (Nhận xét của Alex Shephard, biên tập
viên của The New Republic, New York.) Việc này đưa đến nhiều dư luận phê
phán, tạo ra tên gọi “kỷ nguyên hỗn loạn của giải Nobel.”
Năm
2018, giải Nobel văn chương tạm đình chỉ để tự điều chỉnh một vụ bê bối bên
trong, dẫn đến sự kiện một số người từ chức và phản ứng dữ dội của phe bảo thủ
trong học viện.
Năn
2019, khi sinh hoạt trở lại, giải Nobel dường như đã hứa hẹn một loạt các thay
đổi.
Rồi
trường hợp nhấn mạnh về ảnh hưởng chí trị lại được nêu ra khi giải Nobel văn
chương năm 2021 đã trao cho tiểu thuyết gia người Anh gốc Zanzibarian,
Abdulrazak Gurnah, một nhân vật ít người biết đến, ngay cả theo tiêu chuẩn
riêng của Viện Hàn Lâm: “Sách của ông đã bán được tổng cộng 3.000 bản tại
Hoa Kỳ trước khi ông được công nhận.”
Gurnah
là nhà văn tranh đấu về kỳ thị da màu và về những chủ trương bất bình của thời
hậu lục địa. Trong công việc liên quan đến đấu tranh màu da ở Liên Hiệp Quốc,
ông đã bị phê phán vì chỉ chăm lo việc kỳ thị ở Châu Phi thay vì quán xuyến vấn
nạn này của toàn cầu.
Những
vấn đề chính trị xã hội đang sôi nổi hiện nay như kỳ thị chủng tộc, nữ quyền,
quyền phá thai, quyền giới tính … với giải Nobel liên tiếp năm 2021 và 2022
trao cho Gurnah và Ernaux, không khỏi có nghi vấn. Chưa có giải đáp nào rõ rệt,
vì chính trị dù nghĩa rộng hay hẹp đều là bản chất hoặc linh hồn của tâm trí, của
quốc gia và của thế giới, trong thời hiện tại, nếu văn chương là kết quả của
cách sống, thì phải phân biệt chính trị và văn chương bằng cách nào?
Sách của Ernaux, hồi ký và tự truyện, đều nằm trong số những tác phẩm
văn học quan trọng được xuất bản trong nửa thế kỷ qua. Những cuốn sách liệt kê
các chi tiết sâu sắc và ấn tượng về cuộc đời và thời đại của Ernaux. Sách của
bà thường mang tính chính trị nhưng luôn theo một cách nhìn cá nhân sâu sắc:
Ernaux ám chỉ các sự kiện của cuộc đời mình, cho dù lớn lên trong nghèo khó ở
vùng nông thôn Normandy, phá thai trong hẻm khi là một sinh viên 23 tuổi, hay
có một mối tình ám ảnh với một nhà ngoại giao, bằng ngôn ngữ rõ ràng và thẳng
thắn. (Alex Shephard.)
Cuốn
sách được xem là kiệt tác của bà: “The Years,” kể câu chuyện một
thế hệ phụ nữ Pháp bằng những trải nghiệm của chính Ernaux. Đây là một tác phẩm
cách mạng mà động lực chính trị hiển hiện không thể chối cãi. Hầu hết các tác phẩm của bà, đều tập trung
vào những yếu tố xác định trong cuộc sống và trong kinh nghiệm riêng.
“Annie là một nhà nữ quyền, nhưng bà còn đi xa hơn: Bà đã mô tả không tiếc
lời về kinh nghiệm của phụ nữ”, Daniel Simon, nhà xuất bản người Mỹ của Ernaux,
Seven Stories, nói với tôi. “Annie là một dạng nhân vật phổ quát. Cô ấy là một
nhà văn rất Pháp theo một nghĩa nào đó, nhưng không phải theo cách mà chúng ta
vẫn quen dùng — bà ấy viết những câu rất trực tiếp. Annie luôn gắn bó với phong
cách của mình, với dự án của mình, cho dù người khác có hiểu nó hay không, và
đã làm như vậy trong hơn 50 năm.” (Nhận xét của Alex Shephard.)
Theo
như sự quan sát của riêng tôi: Bắt đầu từ đầu thế kỷ 21, các phong trào văn học
thế giới tiến vào khu vực tích cực đi kèm theo hành động. Nhà văn, nhà thơ, nghệ
sĩ và nhà hoạt động được nhập thành một. Phong trào Engagement (Littérature
engagée) bắt nguồn từ Jean Paul Sartre với ý niệm “Trách nhiệm nghiêm túc của
nghệ sĩ đối với xã hội” đã được hoạt động mạnh mẽ trong vài thập niên gần đây.
Sự kiện này giải thích những tác phẩm và sản phẩm nghệ thuật đương đại nào phân
tích, giải tỏa, lý luận những thao thức, những tư duy, những đau buồn của con
người hôm nay, không thể tách rời khỏi chính trị, nơi mà quyền lực có thể giải
quyết những vấn nạn lại trở thành sự cản trở lớn nhất bởi quyền lợi cá nhân và
đảng phái.
Có thể kết luận rằng giá trị văn chương hiện tại là giá trị chính trị phản kháng của cá nhân và toàn cầu. Đây là câu trả lời.
Truyện
Ngắn
Mẹ Tôi Qua Đời
My
Mother Died
Trích
Trong A Woman’s Story
Bản
dịch Anh ngữ: Tanya Leslie
(A Woman’s Story là câu chuyện của Annie Ernaux "ảnh hưởng sâu sắc
đến các bà mẹ và con gái, tuổi trẻ và tuổi già, ước mơ và hiện thực"
(Kirkus Reviews). Sau cái chết của mẹ bà vì bệnh Alzheimer, Ernaux bắt đầu một
cuộc hành trình đầy cam go xuyên thời gian, khi bà tìm cách nắm bắt một người
phụ nữ thực sự. Ernaux viết: “ Tôi tin rằng tôi đang viết về mẹ tôi bởi vì đến
lượt tôi đưa bà vào thế giới.")
Vào
thứ Hai ngày 7 tháng 4 từ nhà dành riêng cho người già cư ngụ nối liền với bệnh
viện tại Pontoise, nơi tôi đã đưa bà vào ở, hai năm trước đây; y tá nói qua điện
thoại: “Mẹ của cô đã qua đời sáng nay, sau khi ăn điểm tâm.” Lúc đó khoảng
10 giờ.
Lần
đầu tiên cửa phòng của bà đóng lại. Thân thể đã được lau rửa sạch, một dải băng
mỏng quấn quanh đầu và dưới cằm, đẩy tất cả vùng da đầy lên quanh mắt và miệng.
Một tấm vải che từ thân lên đến vai, không thấy đôi bàn tay. Bà giống như một
xác ướp nhỏ. Hai thành giường đã hạ xuống hai bên. Tôi muốn mặc cho bà chiếc áo
ngủ trắng có viền móc mà bà đã mua cho đám tang của chính mình. Y tá nói, một
trong đám nhân viên sẽ lo chuyện này, rồi lấy cây thánh giá được cất trong ngăn
kéo cạnh giường, đặt lên ngực bà. Hai con vít để đóng hai cánh tay đồng vào
thánh giá đã mất. Y tá không chắc họ có thể thay thế bằng vít khác. Không phải
là chuyện quan trọng, cũng vậy thôi, tôi chỉ muốn mẹ có cây thánh giá của bà.
Trên chiếc xe đẩy, có một bó hoa Thường Xuân mà tôi mang đến ngày hôm qua. Y tá
đề nghị nên đi thẳng đến văn phòng hành chánh trong khi họ làm biên bảng kiểm
kê đồ đạc cá nhân. Chỉ còn một ít: một bộ quần áo, một đôi giày mùa hè màu
xanh, một máy cạo.
Tại
văn phòng hành chánh, một phụ nữ trẻ hỏi tôi muốn gì. “Mẹ tôi mất sáng nay.”
“Bà ấy đã đăng ký tại bệnh viện hay là một bệnh nhân dài hạn? Tên bà ấy là gì?”
Cô ta xem xét tờ giấy rồi nở nụ cười nhạt nhẽo. Cô đã được thông báo. Đi lấy hồ
sơ của mẹ tôi. Hỏi một số câu như, nơi bà sinh ra, địa chỉ cuối cùng của bà trước
khi được nhận vào làm bệnh nhân dài hạn. Những chi tiết này đã có sẵn trong hồ
sơ.
Trong
phòng của mẹ tôi, một túi nhựa đựng đồ đạc của bà đã được đặt trên bàn cạnh giường
ngủ. Y tá yêu cầu tôi ký tên vào bản kiểm kê. Tôi quyết định không giữ quần áo
và đồ dùng của mẹ trong bệnh viện. Chỉ lấy ống quét khói nhỏ ở Savoyard từ phố
Annecy và một bức tượng mà bà và cha tôi đã mua khi đi hành hương ở Lisieux. Bây
giờ, tôi đang ở đây, mẹ tôi có thể được đưa vào nhà xác bệnh viện (theo thông tục,
thi thể người quá cố chỉ được để trong phòng khoảng hai giờ sau khi tắt thở).
Khi ra về, chợt nhìn thấy người phụ nữ ở chung phòng với mẹ. Bà ta đang ngồi
trong văn phòng bà sơ, sau vách kính ngăn, với chiếc túi xách trên đùi. Y tá
yêu cầu bà chờ ở đó cho đến khi thi thể mẹ tôi được chuyển đi nhà xác.
Chồng
cũ đi cùng tôi đến gặp người lo dịch vụ tang lễ. Đàng sau những vòng hoa giả, một
vài ghế bành xếp quanh bàn cà phê với vài cuốn tạp chí. Một người phụ tá đưa
chúng tôi vào căn phòng nhỏ, hỏi những câu liên quan đến thời điểm mẹ tôi chết,
nơi chôn cất, và chúng tôi có muốn dịch vụ hay không. Anh ta viết mọi thứ vào
đơn đặt hàng, thỉnh thoảng bấm vào chiếc máy tính bỏ túi. Sau đó, đưa chúng tôi
vào căn phòng tối không có cửa sổ, bật đèn sáng. Hàng chục chiếc quan tài đang
đứng dựa vào tường. Anh giải thích: “Tất cả giá tiền đều đã tính luôn thuế.”
Ba trong số các quan tài đã được mở
nắp để khách hàng có thể chọn màu lót bên trong. Tôi chọn quan tài bằng gỗ sồi
vì mẹ tôi yêu thích cây này và luôn luôn muốn biết liệu đồ nội thất đã mua có
phải làm bằng gỗ sồi hay không. Chồng cũ đề nghị lớp vải lót màu hoa cà. Anh tự
hào, gần như hớn hở vì đã nhớ ra bà thường mặc chiếc áo cánh màu này. Tôi ký
chi phiếu cho anh phụ tá. Công ty sẽ lo hết mọi chuyện, trừ việc cung cấp hoa. Về
đến nhà vào khoảng giữa trưa, uống một ly rượu porto với chồng cũ. Đầu và bụng
bắt đầu đau nhức.
Vào
khoảng năm giờ, gọi điện thoại đến bệnh viện, hỏi thử tôi có thể dẫn hai đứa
con trai đến thăm mẹ trong nhà xác. Cô gái trực tổng đài cho biết đã quá muộn.
Nhà xác đóng cửa lúc bốn giờ rưỡi. Lái xe đi quanh khu vực mới trong thành phố
gần bệnh viện, cố gắng tìm tiệm bán hoa mở cửa ngày thứ Hai. Hỏi hoa kèn trắng,
nhưng người bán hàng khuyên không nên mua: Hoa này chỉ thích hợp cho trẻ em, có
thể dùng cho các cô gái trẻ.
Tang
lễ sẽ diễn ra thứ tư tuần sau. Đến bệnh viện với chồng cũ và hai đứa con trai.
Nhà xác không có bảng chỉ dẫn, chúng tôi lạc đường trước khi phát hiện tòa nhà
bê tông nằm bên bờ rìa của một cánh đồng. Một anh phụ tá mặc áo khoác trắng
đang nói chuyện điện thoại. Ra dấu cho chúng tôi ngồi trong phòng đợi. Ngồi xuống
dãy ghế sắp sát tường, đối diện nhà vệ sinh, ai đó đã để cửa mở. Tôi muốn gặp mẹ
tôi một lần nữa và đặt lên ngực bà hai cành hoa Lê Nhật đã mang theo. Không biết
liệu họ có cho chúng tôi xem thi thể lần cuối trước khi đóng nắp quan tài hay
không? Người phụ tá tang lễ mà chúng tôi gặp trong cửa hàng, bước ra từ phòng
bên cạnh và ân cần yêu cầu chúng tôi đi theo anh ta. Mẹ nằm trong quan tài, đầu
ngửa ra sau, hai tay đan nhau trên cây thánh giá. Băng vải bó đã được gỡ bỏ. Bà
mặc chiếc áo ngủ với đường viền bằng móc. Tấm vải liệm sa tanh đắp dài lên đến
ngực. Đây là căn phòng lớn, trống trải với những vách tường bê tông. Không rõ
ánh sáng yếu ớt từ đâu đến.
Người
phụ tá thông báo chuyến viếng thăm đã chấm dứt, và đưa chúng tôi về lại phòng
khách. Tôi cảm tưởng, anh đã đưa chúng tôi đi thăm, chỉ đơn giản để chứng minh
công ty thực hiện nhiệm vụ một cách thỏa đáng. Chúng tôi lái xe băng qua khu vực
mới của thành phố cho đến khi gặp nhà thờ, nằm bên cạnh trung tâm nghệ thuật. Phải
đợi trước nhà thờ vì xe tang chưa đến. Bên kia đường, ai đó đã dùng hắc ín bôi
nhọ trên mặt tiền siêu thị: “Tiền, hàng tiêu dùng, chính phủ là ba cột trụ của
nạn kỳ thị chủng tộc.” Một vị linh mục bước đến: “Có phải mẹ của bà
không?” Rồi hỏi thăm hai đứa con trai về đang học đại học ở đâu và học môn
gì?
Một
chiếc giường nhỏ trống, viền nhung đỏ xung quanh, đặt trên nền xi măng không,
trước bàn thờ. Sau đó, những người lo tang lễ đặt quan tài mẹ tôi lên trên giường.
Vị linh mục mở máy thu băng chơi nhạc organ. Chúng tôi là những người duy nhất
hiện diện trong buổi lễ, không một ai quanh đây biết mẹ tôi. Vị linh mục ca
khúc hát vịnh rồi nói về “đời sống vĩnh cửu,” và “sự phục sinh của người chị
em”. Tôi muốn buổi lễ kéo dài mãi mãi, muốn làm nhiều việc nữa cho mẹ, nhiều
bài hát hay hơn, nhiều nghi lễ. Nhạc organ lại bắt đầu, vị linh mục dập tắt những
ngọn nến ở hai bên quan tài.
Ngay
sau buổi lễ, xe tang rời đi Yvetot ở Normandy, nơi sẽ chôn cất mẹ bên cạnh cha
tôi. Cùng hai đứa con, tôi lái xe riêng. Trời mưa suốt hành trình, gió bên
ngoài thổi mạnh. Các con hỏi về dịch vụ tang lễ, đây là kinh nghiệm đầu tiên của
chúng nên chưa biết cách ứng phó như thế nào.
Đến
Yvetot, gia đình tập trung gần lối vào nghĩa trang. Một trong những họ hàng la
lớn từ xa: “Thời tiết lạ quá! Cứ tưởng như tháng mười một,” để che giấu
sự bối rối khi thấy chúng tôi đến gần. Chúng tôi cùng nhau đi về phía mộ của
cha tôi. Mộ cho mẹ nằm lộ thiên, đất mới đào thành gò màu vàng ở một bên. Quan
tài của bà được đưa về phía trước. Khi hạ huyệt, những người cầm dây mời tôi bước
tới để chứng kiến cảnh quan tài trợt vào mộ phần. Cách đó vài bước, người phu mộ
đang chờ sẵn với cái xuổng trên tay. Nước da anh hồng hào, mặc quần yếm màu
xanh, đội mũ nồi và đi ủng. Tôi cảm thấy muốn đi đến và cho anh ta một trăm
franc, để anh có thể uống rượu. Không hại gì. Rốt ráo, anh là người cuối cùng
chăm sóc cho mẹ tôi, bằng cách lấp đất cho bà suốt buổi chiều, anh có thể tận
hưởng một chút rượu.
Gia
đình khăng khăng muốn tôi phải ăn một thứ gì trước khi ra về. Sau đám tang, dì
tôi đã đặt sẵn chỗ ăn trưa tại một nhà hàng. Quyết định ở lại vì cảm thấy đây
là việc có thể làm cho mẹ vui lòng. Dịch vụ tiến hành chậm, chúng tôi nói về việc
của mình và những đứa con. Thỉnh thoảng, nhắc đến mẹ tôi. Chúng nói, “Bà ngoại
tiếp tục sống như vậy để làm gì?” Chúng nó nghĩ, bà ngoại qua đời là điều tốt
hơn. Sự chắc chắn của câu nói này là điều tôi không thể hiểu. Lái xe trở về nhà
vào buổi tối. Mọi thứ chắc chắn đã kết thúc.
Cuối
tuần sau đám tang, tôi bắt đầu khóc mà không có lý do gì. Ngay sau khi ngủ dậy,
tôi biết mẹ đã chết. Ngồi dậy sau cơn buồn ngủ, không nhớ gì về giấc mơ, ngoại
trừ thấy mẹ tôi trong đó, bà đã chết. Làm tất cả những việc cần thiết thường
ngày như đi chợ, nấu ăn, giặt đồ bằng máy. Khá thường xuyên, tôi quên thứ tự để
làm những thứ này. Sau khi gọt rau trái, phải dừng lại suy nghĩ công việc tiếp
theo, tức là rửa sạch chúng. Còn đọc sách là việc đơn giản không thể làm. Một
hôm, đi xuống hầm, thấy chiếc va li của mẹ. Mở ra trong đó có cái ví, chiếc túi
xách mùa hè, và một số khăn choàng cổ. Tôi đứng tê liệt trước chiếc va li mở
ra. Giây phút tồi tệ nhất là khi lái xe rời nhà vào phố. Đang ngồi sau tay lái,
đột nhiên ý nghĩ đập vào mặt tôi: “Mẹ không còn sống ở bất kỳ một nơi nào
trên thế giới này nữa.” Không thể chấp nhận thực tế mà người khác có thể xử
lý một cách bình thường. Những xem xét tỉ mỉ khi họ chọn lựa thịt ở những hàng
bán thịt, khiến tôi kinh hãi.
Tình
trạng này dần dần thuyên giảm. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy an ủi vì tiết trời se lạnh,
ẩm ướt như những ngày mẹ còn sống. Cảm giác chìm đắm xảy đến mỗi khi tôi nhận
ra, “bây giờ tôi không cần phải làm … hoặc
không phải làm việc này việc nọ cho mẹ nữa.” Cảm thấy trống vắng,
khi nghĩ, đây là mùa xuân đầu tiên mà bà không được nhìn thấy. (Lúc này, tôi có
thể cảm nhận sức mạnh của câu nghĩ thông thường sáo rỗng.)
Ngày
mai, đúng ba tuần sau ngày đám tang. Chỉ mới hôm qua, tôi mới vượt qua nỗi sợ
hãi khi phải viết: “Mẹ tôi đã qua đời,” không phải trên trang giấy rời,
mà ở phần mở đầu cuốn sách. Thậm chí không thể nhìn những tấm ảnh của mẹ. Một tấm
thấy bà đang ngồi trên bờ sông Seine, hai chân xép gọn gàng bên dưới. Tấm ảnh
trắng đen, nhưng tôi có thể thấy mái tóc đỏ rực và nắng trời phản chiếu trên bộ
y phục màu đen vải alpca.
Tôi
sẽ tiếp tục viết về mẹ là người phụ nữ duy nhất thực sự có ý nghĩa với tôi. Bà
bị bệnh mất trí nhớ trong hai năm. Có lẽ, nên chờ đợi cho đến khi bệnh tật và
cái chết của bà tan vào quá khứ như những sự kiện khác trong đời: Cái chết của
cha và chuyện chia tay với chồng, để khoảng cách xa sẽ giúp tôi phân tích ký ức
dễ dàng hơn. Giờ đây, tôi chẳng có năng lực để làm gì cả.
Đây
là một việc khó khăn. Đối với tôi, bà không có lịch sử. Luôn luôn hiện diện ở
đó. Khi nói về bà, sự thôi thúc đầu tiên của tôi là “đóng băng” người mẹ trong
một loạt các hình ảnh không liên quan đến thời gian. “Bà có tính khí nóng nảy,”
“Rất sôi nổi trong mọi công việc,” và nhớ lại những chuyện ngẫu nhiên mà bà đã
làm. Điều này chỉ mang lại một người phụ nữ trong tưởng tượng mà gần đây đã xuất
hiện trong giấc mơ của tôi, sống lại một lần nữa, trôi nổi không già hơn, qua một
thế giới căng thẳng, làm nhớ lại những bộ phim kinh dị tâm lý. Tôi cũng muốn nắm
bắt một người phụ nữ thực sự, đã hiện hữu không phụ thuộc vào tôi. Bà sinh ra tại
ngoại ô thành phố nhỏ Normandy, và chết tại nhà dưỡng lão của bệnh viện ở bên
ngoài thành phố Paris. Khía cạnh khách quan hơn của tôi trong bài viết sẽ liên
quan đến sự giao thoa giữa lịch sử gia đình và xã hội học trong thực tế và hư cấu.
Cuốn sách này có thể xem là một phiêu lưu trong văn học vì mục đích của nó là
tìm ra sự thật về mẹ tôi, một sự thật chỉ có thể truyền đạt bằng chữ nghĩa.
(Không phải hình ảnh, không phải ký ức, ngay cả những hồi tưởng của gia đình
không thể mang lại cho tôi sự thật này.) Tuy vậy, trong một ý nghĩa nào đó, tôi
vẫn muốn ở dưới vị trí văn học.
Yvetot
là một thành phố giá lạnh, nằm trên cao nguyên lộng gió giữa Rouen và Le Havre.
Vào lúc giao thời của thế kỷ, nó là một trung tâm hành chánh quan trọng, là thủ
phủ thương mại của khu vực hoàn toàn phụ thuộc vào nghề nông, kiểm soát bởi một
nhóm chủ đất giàu có. Ông ngoại tôi làm nghề dệt vải ở một trong những trang trại
địa phương. Bà ngoại tôi kiếm sống bằng nghề dệt vải tại gia, họ dọn đến Yvetot
vài năm sau khi kết hôn. Cả hai đến từ một ngôi làng cách xa độ ba cây số. Họ
thuê một ngôi nhà nhỏ có sân trong vùng ngoại ô thành phố, nằm phía bên kia đường
rầy, khoảng giữa những quán cà phê cuối cùng gần nhà ga và những cánh đồng đầu
tiên của Colza. Năm 1906, mẹ tôi sinh ra ở đó, đứa con thứ thư trong gia đình
sáu anh chị em. Bà tự hào nói với mọi người: “Tôi không sinh ra ở vùng thôn
quê.”
Bốn
đứa con chưa bao giờ rời khỏi thành phố. Mẹ tôi ở Yvetot ba phần tư cuộc đời. Họ
dọn vào gần trung tâm thành phố nhưng không thực sự sống ở đó. Họ vào phố tham
dự thánh lễ, mua thịt, gửi hàng bưu điện. Một trong những chị em họ có căn nhà
nơi trung tâm thành phố, cắt ngang bởi đường N15, con đường chính có xe tải chạy
suốt ngày đêm. Cô đã cho con mèo uống thuốc ngủ để khỏi chạy ra ngoài bị xe
cán. Khu vực mà mẹ tôi trải qua thời thơ ấu, sau này, được nhiều người có lợi tức
cao tìm đến, vì không khí yên tĩnh và các tòa lầu cổ kính.
Bà
tôi đặt ra luật lệ để bảo đảm con cái được dạy dỗ đúng đắn, quát mắng và đánh
đòn chúng khi cần thiết. Bà là một nhân viên năng nổ nhưng khó hòa đồng. Đọc từng
xê ri bài là cách giải trí duy nhất của bà. Có năng khiếu viết và đứng đầu khi
thi đậu chứng chỉ sơ cấp. Bà có khả năng trở thành nữ hiệu trưởng nhưng cha mẹ
không cho phép rời khỏi làng. Một người chia cách với gia đình luôn được xem là
dấu hiệu của sự bất hạnh. (Trong tiếng Pháp Norman, “tham vọng” là nói đến tổn
thương khi chia ly; chẳng hạn, một con chó có thể chết vì tham vọng.) Để hiểu
câu chuyện, kết thúc khi bà mười một tuổi, người ta phải nhớ tất cả những câu
này bắt đầu với “ngày xưa”: Ngày xưa, người ta không đi học như bây giờ; ngày
xưa, người ta nghe lời cha mẹ, …v…v…
Nói
một cách khác, bà là người nội trợ giỏi, xoay xở để nuôi sống gia đình trong
khi thực sự không có tiền. Khi những đứa trẻ sắp hàng vào nhà thờ, chúng ăn mặc
tử tế (không có chỗ rách hoặc dơ bẩn), tiến tới tình trạng sống đàng hoàng, khiến
gia đình không cảm thấy như những kẻ bần cùng.
Bà
đổi ngược cổ áo và cổ tay sơ mi của các cậu trai để có thể mặc lâu hơn gấp hai
lần. Bà tiết kiệm mọi thứ, bánh mì cũ, lớp màng sữa để làm bánh, tro để giặt đồ,
hơi nóng của bếp để phơi khô mận, khăn lau bát đĩa, và nước dùng rửa buổi sáng
để chúng tôi có thể rửa tay trong ngày. Bà biết hầu hết mẹo vặt dùng trong gia
đình để giảm bớt nghèo khó. Loại hiểu biết này truyền từ mẹ sang con gái trong
nhiều thế kỷ, dừng lại ở thế hệ tôi. Chỉ là một người lưu trữ.
Ông
ngoại tôi, một người đàn ông mạnh mẽ, hiền lành, qua đời vì đau tim năm năm
mươi tuổi. Mẹ tôi lúc đó mới mười ba tuổi, rất ngưỡng mộ ông. Sau khi ông mất,
thái độ của bà tôi trở nên cứng rắn và nghi ngờ mọi người. (Bị ám ảnh bởi kinh
qua những khủng hoảng: đứa con trai đi tù, và đứa con gái đẻ hoang.) Khi nghề dệt
thủ công tại gia không còn nữa, bà nhận công việc giặt đồ cho người khác và dọn
dẹp văn phòng.
Vào
cuối đời, bà dọn về ở chung với vợ chồng con gái út. Họ sống cạnh đường sắt,
trong nhà tiền chế không có điện, từng dùng làm kho chứa cho nhà máy bên cạnh.
Ngày Chủ Nhật, mẹ tôi dẫn tôi đi xem con diệc. Mẹ là một phụ nữ nhỏ nhắn, đầy đặn,
rất nhanh nhẹn mặc dù khi sinh ra có tật, một chân dài một chân ngắn. Ít nói,
tính tình thô lỗ và thích đọc tiểu thuyết. Thích uống eau-de-vie, thứ mà bà ấy
trộn với cặn cà phê lấy dưới đáy cốc. Bà qua đời năm 1952.
Những
điểm chính trong thời thơ ấu của mẹ:
-
Vô cùng thèm ăn. Trên đường trở về nhà từ tiệm bánh, bà ăn cả trái cân. Bà nói:
“Khi tôi hai mươi lăm tuổi, có thể nuốt chửng cả biển với tất cả tôm cá
trong đó.”
-
Sáu đứa con ở cùng một phòng, bà ngủ chung với người chị, một kẻ mộng du, khi
tìm thấy cô ta đang đứng trong sân, ngủ say, mắt mở thao láo….
-
Những áo đầm và những đôi giày được chuyền
từ chị xuống em, một con búp bê bằng vải vụn cho lễ Giáng Sinh, rượu táo
ngọt làm sâu răng.
Mặt
khác:
-
đi trên xe ngựa cũ, trợt trên mặt hồ đóng băng vào năm 1916, bỏ qua các trò
chơi và chơi trò cút bắt, tung những lời lăng mạ vào các cô gái trẻ đi học trường
tu viện địa phương (Những lời chọc phá kèm theo dấu hiệu xem thường: quay lại chổng
đít vỗ vào mông.)
-
dẫn đầu cách sống ngoài trời, cô gái nhỏ nông thôn hiểu biết đầy đủ giống như
các cậu trai: cưa gỗ, rung cây táo cho rụng trái, giết gà mái bằng cách cắm cái
kéo xuống cổ họng . Tuy vậy, có điểm khác biệt: cô bảo đảm không ai dám chạm
vào “chỗ đó” của mình.
Mẹ
tôi theo học trường tiểu học ở địa phương, vắng mặt khi cần ra ngoài đồng hoặc
khi anh, chị hoặc em của bà đau ốm. Bà không nhớ nhiều về giai đoạn này. Có điều
các nữ hiệu trưởng mong muốn các cô gái lịch sự và sạch sẽ: họ kiểm soát cổ áo
và móng tay, yêu cầu tháo một chiếc giày (để không biết trước phải rửa chân
nào). Mẹ đi học không hề trải qua một chút kinh nghiệm nhiệt tình nào. Thời đó,
không ai thúc đẩy con cái, động lực này phải có sẵn bên trong. Trường học chỉ
là một giai đoạn mà người ta phải trải qua trước khi ra kiếm sống. Trốn học,
không phải là ngày tận thế. Nhưng không được trốn thánh lễ. Ngay cả đứng phía
sau nhà thờ, cũng có thể chia sẻ vẻ đẹp, sự sang trọng, và tinh thần tế lễ:
chén thánh bằng vàng, những chiếc khăn thêu, những bài thánh ca, và có ấn tượng
không sống trong tình trạng hoàn toàn nghèo khó.
Thời
gian đầu, mẹ rất thích tôn giáo. Giáo lý là môn học mà bà say mê và thuộc lòng
hết những câu trả lời. (Trong nhà thờ, bà phản ứng bằng giọng điệu cuồng nhiệt,
trầm bổng, như thể chứng tỏ bà đã biết.)
Bà
không vui cũng không buồn khi phải rời trường học lúc mười hai tuổi rưỡi. Thói
quen này rất phổ biến thời đó. Tìm được
việc làm trong nhà máy sản xuất bơ thực vật. Bà chịu đựng lạnh lẽo và ẩm ướt,
đôi tay thấm nước làm da thịt nứt nẻ suốt mùa đông. Vì vậy, bà không thể chịu đựng
khi thấy bơ thực vật. Đối với bà, không phải “tuổi thanh xuân đầy mơ mộng”, mà
là sự chờ đợi dài đăng đẳng cho đến tối thứ Bảy. Sau khi mang tiền về cho bà
ngoại, còn lại số tiền tiết kiệm chỉ đủ mua một ít son phấn trang điểm, loại phấn
son giả theo L’Echo de la Mode, và một vài tiếng cười khúc khích miễn cưỡng. Một
hôm, người quản đốc để chiếc khăn quàng cổ của anh mắc vào một trong chiếc máy
đang chạy. Không ai đến giải cứu, anh ta phải tự tháo để thoát thân. Mẹ tôi
đang đứng bên cạnh. Làm sao người ta có
thể hiểu được thái độ của bà nếu họ không trải qua cùng mức độ bị cô lập.
Trong
bối cảnh kỹ nghệ hóa của thế kỷ hai mươi, một nhà máy sản xuất dây thừng đã được
thành lập trong vùng, thu hút tất cả những người trẻ ở địa phương. Mẹ tôi cũng
được nhận vào cùng với các chị gái và hai anh trai. Để đời sống được thoải mái
hơn, bà ngoại dời vào ngôi nhà, cách nhà máy vài trăm mét, nơi bà và các con
gái dọn dẹp sau giờ làm việc. Mẹ tôi thích làm việc ở xưởng sạch sẽ, khô ráo,
được phép trò chuyện và đùa giỡn. Bà tự hào về công việc này. Làm trong nhà máy
lớn khiến bà cảm thấy văn minh so với những người còn nhà quê, những thôn nữ
quanh quẩn với trâu bò, và tự do so với người đầu tắt mặt tối, những người giúp
việc cho gia đình người khác, tóm lại là “liếm đít người giàu.” Và bà tự nhận
ra mình đã đi được bao xa so với nguyện vọng duy nhất: trở thành cô gái bán
hàng.
Giống
như những gia đình đông đảo khác, gia đình mẹ tôi là một bộ tộc: bà ngoại và
con cái có cách cư xử giống nhau ở những nơi công cộng và lối sống trong hoàn cảnh
làm việc nửa tỉnh nửa quê. Có nghĩa là, người ta có thể nhận ra ngay họ là ai.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cả nam lẫn nữ, họ luôn luôn nói lớn tiếng. Mặc dù bản
tính vui vẻ, cởi mở, họ rất dễ bị xúc động và nhạy cảm đưa đến sự tấn công, nói
thẳng với mọi người ý nghĩ của họ. Trên hết, họ tự hào về những nỗ lực mà họ đã
dành cho việc làm. Họ cảm thấy khó tin, bất kỳ ai khác có thể chứng tỏ sự tận
tâm hơn. Vượt qua giới hạn giai cấp của họ bằng cách tự cho mình là “nhân vật
nào đó”. Điều này có thể giải thích cho sự điên cuồng của họ trong mọi phương
diện, công việc, thức ăn, cười cuồng nhiệt, rồi chỉ một giờ sau tuyên bố “Tôi
sẽ nhảy vào bể nước để tự vận.”
Mẹ
tôi là người tính khí kiêu ngạo, nóng nảy. Bà nhận biết mình thuộc tầng lớp thấp
hơn và vì đó mà căm phẫn, từ chối bị đánh giá chỉ dựa trên địa vị xã hội. Bà
thường nói về những người giàu có, “Họ không hơn gì chúng ta.” Bà là một
cô gái tóc vàng, mắt xám, rất hấp dẫn, đầy đặn, dễ ưa và tràn đầy sinh lực.
Thích đọc bất kỳ thứ gì có thể tìm thấy. Thích hát những ca khúc nổi tiếng nhất.
Thích trang điểm đi chơi với bạn đến rạp hát hoặc rạp chiếu phim, để xem Roger
la Honte và Le Maitre de Forges. Luôn luôn sẵn sàng vui chơi thêm một chút.
Nhưng
thời đó, trong thành phố nhỏ, mọi người quan tâm tìm hiểu hàng xóm càng nhiều
càng tốt. Chắc chắn, một người sẽ bị dằn co giữa việc muốn “tận hưởng tuổi trẻ”
và lo sợ cho tiếng tăm của mình. Mẹ tôi cố gắng sống theo hình ảnh tốt nhất mà
mọi người có thể cư xử đối với giai cấp của bà: “Những thiếu nữ hãng xưởng,
nhưng dù sao cũng đáng nể trọng.” Đi lễ, rước lễ, thêu quần dài tại trại trẻ
em mồ côi ở địa phương do các nữ tu đảm trách, không bao giờ đi vào rừng một
mình với con trai. Làm sao bà hiểu được những chiếc váy ngắn (bà tự lên lai),
đường cắt ngang trước ngực, biểu cảm “táo bạo” trong đôi mắt, và đặc biệt là
cách cư xử đối với đàn ông, bà sẽ không bao giờ được đánh giá là “thiếu nữ đứng
đắn”, chính là điều bà ao ước trở thành.
Tuổi
trẻ của bà liên quan đến việc nỗ lực trốn thoát những điều nhàm chán xác định
trong số phận: nghèo đói không thể tránh khỏi, mối đe dọa nghiện rượu, và nhiều
chuyện khác xảy ra cho một cô gái hãng xưởng đã sa vào những thói quen xấu (hút
thuốc nơi công cộng, lang thang trên phố về đêm, mặc quần áo bẩn ra đường.) Loại
cô gái mà không “chàng trai đáng nể trọng” nào muốn nhìn hai lần.
Không
một ai trong số anh chị của bà còn sống sót. Bốn người đã qua đời trong hai
mươi lăm năm qua. Trong thời gian dài, cơn thèm ăn điên cuồng được thay thế bằng
rượu, đàn ông rủ nhau đi quán cà phê, đàn bà ở nhà một mình. (Chỉ cô em út, người
không uống rượu, vẫn còn sống.) Trừ khi họ uống đủ số lượng rượu, nếu không, họ
ủ rũ, lầm lì. Họ miệt mài làm việc trong im lặng, “một nhân viên tốt” hay “một
phụ nữ quyến rũ không bao giờ đưa ra bất kỳ lý do gì để phàn nàn”. Nhiều năm
qua, họ đã quen bị đánh giá theo mức độ uống, họ “ngà ngà” hoặc họ “say xỉn”.
Một
năm, vào ngày thứ Bảy, tôi gặp dì M, trên đường đi học về. Hôm đó là ngày nghỉ
của dì, như thường lệ, dì sắp vào phố với cái túi đầy chai không. Dì hôn lên
hai bên má tôi, khẽ lắc lư, không thể thốt lên một lời nào. Cuốn sách của tôi
không bao giờ thành hình, nếu ngày đó, không gặp dì.
Phụ nữ Fora, hôn nhân là vấn đề sống chết. Hy vọng hoặc “làm sao để hai người ăn ở với nhau lâu bền” hoặc rơi xuống tận đáy. Vì vậy, một người phải có khả năng nhận ra người đàn ông nào làm cho người đàn bà được hạnh phúc. Đương nhiên, không phải là anh nông dân, dù là người có tiền, để cuối cùng vắt sữa bò trong ngôi làng tối tăm không có điện. Cha tôi làm việc tại nhà máy sản xuất dây thừng. Ông cao ráo, tề chỉnh, sống theo một phong thái riêng. Không uống rượu, để dành tiền chăm lo nhà cửa. Trầm lặng, vui vẻ, lớn hơn mẹ bảy tuổi (một chàng trai không thể bỏ qua!). Mỉm cười và thẹn đỏ mặt, mẹ kể với tôi: “Vào thời đó, nhiều người tán tỉnh mẹ. Một số người cầu hôn, nhưng mẹ chọn cha.” Bà thường nói thêm: “Ông ấy trông khác thường.”
(Trích A Woman’s Story. Annie Ernaux. Bản Anh ngữ:
Tanya Leslie.)
Trích
đoạn
Năm Tháng
Tác
phẩm: The Year của Annie Ernaux
Bản
Anh ngữ: Alison L. Strayer
Xuất
bản: Seven Stories Press. New York. London.
(Lời người dịch:
The Year được xếp hạng dẫn đầu và tiêu biểu văn phong của
Ernaux. Đúng ra là một tác phẩm tự truyện về đời sống và tâm tư của tác giả từ
1940 đến 2006.
Xuất bản năm 2008 tại Pháp, The Year đã gây ra phản ứng bất ngờ:
“… cả một cuốn hồi ký thân thiện được “viết” bởi cả thế hệ, và một câu chuyện của
nhiều thế hệ kể lại một cách rất riêng tư.”
(goodreads.).
Qua vài phần trích đoạn bên dưới, cũng đủ để nhìn thấy, một lối viết ghi
nhận lịch sử đính kèm sự thao thức của cá nhân, thực sự trăn trở về tai hại của
quyền lực chính trị và sức tiến bộ điện tử đáng kinh ngạc, khâm phục và lo lắng.
Suy nghĩ tất nhiên phải chủ quan. Đọc những suy nghĩ của người khác không phải
để so sánh với suy nghĩ của mình, mà để xem xét giá trị khả năng và tác dụng
suy nghĩ của họ. Một tác phẩm thời nay, luôn mang theo sức thao thức, băn khoăn,
tự vấn, và khả năng luận lý của tác giả một cách nào đó, rất “trực tiếp” và
“đánh động” sự ù lì hoặc lơ là trong tâm trí đám đông.
The Year, (mặc dù đôi lúc rất giống lối viết tiểu luận,) được
xem là truyện không phải vì hư cấu lịch sử thực tế, mà vì tác giả trình bày
theo kỹ thuật kể chuyện của nhân vật thứ ba, phong cách là không xem trọng sự
khách quan và diễn biến không nhất thiết phải tuân theo tiêu chuẩn của lịch sử
chính phái. Mục tiêu chủ yếu là trình bày tư duy cá nhân. Tác giả thường xuyên
sử dụng đại danh từ “chúng tôi”, có lẽ muốn nói đến số đông có cùng suy tư hoặc
muốn nói tâm tư cả thế hệ của bà.
Bà viết, ‘Khi gặp một người chưa quen, sẽ tự hỏi họ đứng về phe nào’, phải chăng chúng ta nghe được câu hỏi này rất quen thuộc? Trong giai đoạn Trumpism, có phải chúng ta thường xuyên tự hỏi như vậy? Và trong bất kỳ một quan điểm, xu hướng chính trị nào, phải chăng luôn có phe phái tranh cãi thù ghét nhau? Chuyện này bình thường xảy ra như cơm bữa, tại sao lại xem quá quan trọng, sống chết một cách cực đoan? Đó là lý do mà nhà văn có trách nhiệm phải tham gia, đối đầu, đụng độ với những tác dụng hãm hại của chính trị.)
(...)
Đoạn Một.
Đột
nhiên, chúng tôi biết được từ gia đình những chuyện năm 1936 là có thật.
Chúng
tôi nhìn và thấy những gì chưa bao giờ tưởng tượng có thể thấy hoặc nghe trong
đời. Những nơi như trường đại học, hãng xưởng, rạp hát, có luật lệ lâu đời xác
định nhiệm vụ, chỉ thu nhận một số nhóm dân cư nhất định nào đó, giờ đây, mở rộng
cho tất cả mọi người. Ở đó, chúng tôi trò chuyện, ăn, ngủ, yêu đương, làm mọi
thứ ngoại trừ những thứ luật lệ mà nơi đó đã định sẵn. Những nơi tôn nghiêm
mang tính thể chế đã thành dĩ vãng. Giáo sư và sinh viên, già và trẻ, giám đốc
điều hành công ty và nhân viên lao động đã cùng nhau trò chuyện. Thật kỳ diệu,
cấp bậc và ngăn cách tan biến trong lời nói. Chúng tôi trải qua những lời lẽ nhận
xét được diễn đạt cẩn thận, ngôn ngữ tinh tế và nhã nhặn, đo lường giọng điệu
và ngụ ý.
Khoảnh
cách mà giờ đây chúng tôi đã hiểu, giai cấp quyền hành và những người ủng hộ đã
thiết lập sự thống trị, người ta chỉ cần nhìn vào Michel Droit. Giọng nói sôi nổi
thẳng thắng có khi tàn nhẫn, cắt đứt lời nhau không cần xin lỗi. Những gương mặt
thể hiện cơn tức giận, khinh thường và vui sướng. Thái độ tự do và sinh lực của
cơ thể có thể lấy đi hơi thở của một người. Nếu đây là cuộc cách mạng, thì sẽ bắt
đầu từ đó, lộng lẫy, trong việc mở rộng và giải thoát thân xác để tự do ổn định
ở bất cứ nơi nào họ muốn.
Tuy
không hiểu rõ ý nghĩa, chúng tôi thấy được sự kinh bỉ của giới quí tộc đối với
cuộc cách mạng khi de Gaulle xuất hiện trở lại, ông đã ở đâu, chúng tôi hy vọng
nếu ông đi mất luôn sẽ là chuyện tốt. ông nói về cuốn Chienlit 13 (1) với vẻ mặt
ghê tởm, rút gọn thành một thuật ngữ diễn tả luôn cả hai: phân thối và giao cấu,
cơn quằn quại đồi trụy, một bản năng được thả lỏng.
Chúng
tôi không quan tâm sự vắng mặt của nhà lãnh đạo đảng lao động đang nổi lên. Với
không khí gia trưởng, Đảng Cộng Sản và các công đoàn tiếp tục xác định nhu cầu
và ước muốn. Họ vội vã đàm phán với chính quyền, nơi hầu như không còn dấu hiệu
sự sống, như thể không có gì tốt hơn là gia tăng quyền lực mua bán và mặc cả tuổi
về hưu thấp hơn. Khi kết thúc hiệp định Grenelle, lắng nghe họ phác thảo một
cách hào sảng, bằng những từ ngữ mà chúng tôi đã quên ba tuần trước đó. “Các biện
pháp" mà chính quyền “đồng ý”, chúng tôi cảm thấy ớn lạnh và bắt đầu hy vọng
trở lại khi “cơ sở” tầng lớp lao động bác bỏ sự thoái vị của Grenelle và Mendès
France tại sân vận động Charléty.
Việc
giải tán Hội đồng và tuyên bố bầu cử lại khiến chúng tôi rơi vào nghi ngờ. Khi
nhìn đám đông u ám đổ xuống Champs-Élysées với Debré và Malraux, những người có
đặc điểm gây kích hoạt và phá hại, không còn giúp họ thoát khỏi tinh thần nô lệ,
tay trong tay với những người khác trong tình anh em giả dối và miễn cưỡng,
chúng tôi biết kết cuộc đã đến. Có hai thế giới mà chúng tôi phải quyết định ở
giữa, đó là sự thật không thể bỏ qua. Các cuộc bầu cử không phải để chọn lựa mà
chỉ đơn giản phục hồi danh vọng, uy quyền cho vị trí cũ của họ. Trong mọi trường
hợp, năm mươi phần trăm thanh niên chưa đến hai mươi mốt tuổi, không thể bỏ phiếu.
Tổng Liên Đoàn Lao động và đảng Cộng Sản đã ra lệnh cho đám đông quay trở lại
trường học và hãng xưởng. Với cách nói chậm rãi, giả dạng nông dân từ những
phát ngôn viên của họ đã thực sự thu phục chúng tôi. Họ mang danh “đồng minh
khách quan của chính quyền” và những kẻ phản bội Stalin, một hình ảnh mà các đại
diện công đoàn nơi đây đã tạo ra trong nhiều năm, mục tiêu của các cuộc tấn
công.
Tiếp
tục các kỳ thi, tàu chạy trở lại, xăng chảy bình thường. Mọi người có thể đi
nghỉ mát. Đầu tháng Bảy, những du khách tỉnh lẻ băng qua Paris bằng xe buýt giữa
các ga xe lửa, cảm thấy đá sỏi gập ghềnh trên mặt đường cũ, chưa ai làm gì. Vài
tuần sau, khi quay trở về, họ băng qua đường nhựa trơn láng, không còn lởm chởm
dưới bánh xe. Họ tự hỏi tất cả hàng ngàn tấn đá sỏi kia đã biến đi đâu? Dường
như, những chuyện như vậy đã xảy ra nhiều hơn trong hai tháng, so với mười năm
trước, nhưng với chúng tôi thì không. Không có thời giờ để làm bất cứ chuyện
gì. Tại một số thời điểm, không rõ chính xác khi nào, chúng tôi đã bỏ lỡ điều
gì đó, hay chỉ để chúng trôi qua.
Mọi
người bắt đầu tin vào một tương lai đầy bạo lực. Đó là chuyện của vài tháng về sau,
nhiều nhất là trong một năm. Người ta nói, mọi chuyện sẽ nóng lên vào mùa thu
và mùa xuân. (Cho đến khi ngừng suy nghĩ về nó, sau đó, tình cờ bắt gặp chiếc
quần Jean cũ, chúng tôi nghĩ, “Quần này may hồi tháng Năm, 1968”). Một số người
hy vọng, làm việc hướng về “Tái Tạo Tháng Năm” và một xã hội mới. Số người khác
sợ hãi và chống đối vì bị ám ảnh, bỏ tù Gacrielle Russier, đánh hơi thấy “cánh
tả” ở tất cả những đàn ông tóc dài, hoan nghênh luật cấm biểu tình, và lên án mọi
thứ. Ở nơi làm việc, người ta chia nhau thành hai phe, những người bãi công và
những người không đình công tháng Năm, đều bị tẩy chay như nhau. “Tháng Năm 68”
trở thành tiêu mốc xếp hạng cá nhân. Khi gặp một người chưa quen, sẽ tự hỏi họ
đứng về phe nào, Cho dù ở phe nào, bạo lực
vẫn như nhau, chúng ta không có gì để tha thứ cho bản thân.
Chúng
tôi, những người ở lại với đảng Xã Hội Chủ Nghĩa thống Nhất để thay đổi xã hội,
nhưng giờ đây, phát hiện ra những người theo chủ nghĩa Mao và Trotsky, một số
lượng lớn các ý tưởng và khái niệm xuất hiện cùng một lúc. Các phong trào, sách
báo, tạp chí xuất hiện khắp nơi, cùng với các triết gia, các nhà phê bình và xã
hội học, như: Bourdieu, Foucault, Barthes, Lacan, Chomsky, Baudrillard, Wilhelm
Reich, Ivan Illich, Tel Quel, phân tích cấu trúc, thuyết minh học
(narratology), sinh thái học. Từ những người thừa kế Bourdieu cho đến cuốn sách
nhỏ của Thụy Điển về các tư thế tình dục, mọi thứ đều nhắm đến sự thông minh mới
và thế giới đang biến dạng.
Sự
bùng nổ trong các ngôn ngữ cho đến nay, không biết bắt đầu từ đâu, rồi tự hỏi tại
sao chúng tôi không phát hiện những chuyện này cho đến bây giờ mới biết. Chỉ nội
trong một tháng, chúng tôi đã được bù đắp lại những gì không biết trong những năm
mất mát đã qua. Thật xúc động và yên tâm khi gặp lại de Beauvoir trong khăn quấn
đầu, gặp lại Sartre, già hơn những vẫn hay gây gỗ như ngày nào, mặc dù họ không
có gì mới để dạy chúng ta. Còn André Breton, đáng tiếc, đã qua đời quá sớm cách
đây hai năm.
Lúc
này, mọi thứ từng được xem là bình thường đều trở thành đối tượng khảo sát kỹ
lưỡng. Gia đình, giáo dục, nhà tù, công việc, ngày nghỉ, sự điên rồ, quảng cáo,
mọi khía cạnh thực tế đều bị đặt câu hỏi, kể cả lời của nhà phê bình, người được
lệnh phải xem xét lại bản thân, nguồn gốc của mình, ta từ đâu đến? Xã hội không
còn sinh hoạt một cách ngây thơ, Mua xe, làm giấy, đẻ con đều có ý nghĩa.
Phải
hiểu biết mọi thứ về địa cầu, đại dương, tội ác của Btuay-en-Artois. Phải đóng
góp phần cá nhân vào mọi cuộc đấu tranh, Allende’s Chilie, Cuba, Tiệp Khắc, Việt
Nam. Đánh giá các hệ thống và tìm kiếm các mô hình trong việc đọc chính trị
toàn cầu. Chìa khóa quan trọng là “giải phóng” (liberation.)
(Trích trong chương 10)
[…]
Đoạn Hai
Chiến
tranh Việt Nam kết thúc. Có rất nhiều chuyện đã xảy ra trong cuộc sống, kể từ
khi bắt đầu nó đã là một phần của chúng ta tồn tại. Ngày Sài Gòn thất thủ,
chúng tôi nhận ra rằng, chưa bao giờ tưởng tượng được sự tổn thất của người Mỹ.
Cô bé trên tấm bích chương treo trên tường, cuối cùng đã trả tiền cho bom
bapalm (2). Chúng tôi cảm thấy vui và mệt mỏi khi chuyện này đã chấm dứt. Nhưng
thất vọng quay trở lại. Truyền hình chiếu những đám người bám vào thuyền để chạy
trốn cộng sản, rời khỏi Việt Nam.
Việc
đọc Canard Enchaîné, vua Sihanouk của Vương triều Campuchia, không thể che đậy
sự tàn bạo của Khmer Đỏ. Mao đã qua đời, và chúng tôi nhớ lại vào một buổi sáng
mùa đông, ngay trước khi đi học, đã nghe thấy tiếng ai đó la lớn trong bếp, Stalin đã chết. Phía sau Thần Sông
Trăm Hoa, phát hiện ra một băng tội phạm do người vợ góa của ông ta là Giang
Thanh cầm đầu.
Cách
Paris không xa, ở biên giới, Lữ đoàn Đỏ và Băng đảng Baader-Meinhof đã bắt cóc
các giám đốc công ty và các chính khách, sau đó người ta phát hiện ra họ chết
trong thùng xe hơi, giống như thành phần xã hội đen. Khát vọng về một cuộc cách
mạng trở nên vô nghĩa, và chúng tôi không dám bày tỏ nỗi buồn về vụ tự sát
trong tù của Ulrike Meinhof. Không thể giải thích được, tội ác của Althusser
khi bóp cổ vợ đến chết trên giường vào một buổi sáng Chủ nhật được cho là do chủ
nghĩa Marx giống như bất kỳ hình thức bệnh tâm thần nào.
Các
“triết gia mới” xuất hiện trên truyền hình, loại bỏ các “hệ tư tưởng” cũ. Họ chào
đón Solzhenitsyn và Gulag khiến những người cách mạng co rúm người. Họ trẻ hơn
de Beauvoir với khả năng di chuyển nhanh như chớp hay Sartre, người được cho là
đã cao tuổi nhưng vẫn từ chối lên truyền hình. Về mặt chúng tôi có thể nắm bắt
được, họ thúc đẩy lương tâm trong khi trấn an về trí thông minh của chúng tôi.
Mặc dù không rõ họ đang cố gắng làm gì ngoài việc khuyên mọi người bỏ phiếu cho
Liên minh Cánh tả, cảnh tượng về sự phẫn nộ đạo đức của họ thật thú vị.
Chúng
tôi, những người được dạy dỗ khi còn nhỏ, để cứu rỗi linh hồn mình phải thông
qua những việc làm tốt, để sống theo mệnh lệnh phân biệt của Kant, chỉ hành động
phù hợp với một câu châm ngôn nếu bạn có thể để nó trở thành một quy luật phổ
quát, để thay đổi thế giới với Marx và Sartre, và những người, vào năm 1968, đã
tin rằng chúng tôi sẽ không thấy hy vọng
vào bất kỳ điều gì trong những điều này.
Vấn
đề về những vùng ngoại ô bất ổn và những gia đình mới đến chia sẻ nhà ở công cộng
với những người đã ở đó lâu hơn, đang bị phê phán và phản đối vì họ không nói
hoặc ăn uống giống "như chúng tôi". Chuyện này đã không được giải quyết
bằng tiếng nói của chính quyền. Đây là những nhóm dân cư được xác định một cách
mơ hồ, ít được biết đến, khác xa với lý tưởng hạnh phúc đã thu hút toàn xã hội.
Họ "thiệt thòi", đã gặp xui xẻo khi phải sống trong những "túp lều
thỏ", và không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải như vậy, vì không ai
có thể hình dung được hạnh phúc ở đó như thế nào. Dân nhập cư thể hiện mặt mũi
trong hình thù của nhân viên đường cao tốc với chiếc mũ bảo vệ dưới đáy ổ gà hoặc
người phu quét dọn bên cạnh một bãi rác. Họ đã được phân bổ cho sự hiện hữu của
nền kinh tế đắc thắng. Sự tồn tại của họ chỉ vì mục đích kinh tế, điều mà sinh
viên của chúng tôi vui mừng gán cho họ trong một cuộc tranh luận đạo đức hàng
năm. Chúng tôi tin rằng họ có cách bảo vệ tốt nhất để chống lại sự kỳ thị chủng
tộc là sự hiện diện của họ rất cần thiết để làm những công việc mà người Pháp
không còn muốn làm.
(Trích chương 13.)
[…]
Đoạn Ba
Khi
nhìn lên vào ban đêm, thấy mặt trăng đã cố ý chiếu sáng trên hàng tỷ người. Chúng ta có thể cảm
nhận một thế giới rộng lớn và tràn đầy sinh hoạt. Ý thức trải dài trên toàn bộ
không gian của hành tinh đến các thiên hà xa xôi. Vô hạn không còn là tưởng tượng.
Dường như, đó là tại sao không thể hiểu được, một ngày nào đó chúng ta sẽ chết.
Nếu
cố gắng thống kê những điều đã xảy ra sau ngày 11 tháng 9, sẽ thấy một loạt các
sự kiện diễn ra nhanh chóng, một loạt các kỳ vọng và sợ hãi trong thời gian
liên tục và các vụ nổ làm chúng ta tê liệt hoặc khổ đau. “Sẽ không còn gì giống
như trước đây” trở thành chủ đề chính. Nhưng sau đó, vội tan biến, bị lãng
quên, chưa giải quyết được mà đã tưởng niệm mỗi năm hoặc thậm chí một tháng sau
đó, như thể những chuyện này là lịch sử xa xưa.
Có
ngày 21 tháng 4, cuộc chiến ở Iraq, may mắn là không bao gồm chúng tôi. Cái chết
của Đức Gioan Phaolô II, một vị giáo hoàng khác mà chúng tôi không nhớ tên
thánh, chứ đừng nói đến con số đứng sau. Vụ đánh bom nhà ga Atocha. Một buổi tối
lễ hội lớn cho cuộc trưng cầu ý dân: Không bỏ phiếu về Hiến pháp Châu Âu. Những
đêm bạo loạn bùng phát ở vùng ngoại ô, Florence Aubenas. Các cuộc tấn công khủng
bố ở London, Chiến tranh Liban giữa Israel và Hezbollah. Sóng thần ở Ấn Độ
Dương. Saddam trốn trong hầm bị bắt và bị treo cổ (không ai biết khi nào). Dịch
bệnh nguy hiểm, SARS, cúm gia cầm, vi khuẩn chikungunya. Trong mùa hè kéo theo
đợt nắng nóng lớn, lính Mỹ được đưa về nhà trong những chiếc túi xách từ Iraq.
Những cụ già và phụ nữ chết vì nắng nóng được xếp trong các buồng làm lạnh ở chợ
Rungis.
Mọi
thứ dường như tràn ngập. Hoa Kỳ là chủ nhân của thời gian và không gian, mà họ
chiếm đóng theo nhu cầu và lợi ích. Ở mọi nơi người giàu ngày càng giàu và người
nghèo ngày càng nghèo đi. Những người ngủ trong lều dọc theo Đại lộ
Périphérique. Chàng trai trẻ chế nhạo "Xin đón mừng đã đến một thế giới tồi
tệ" và sau một thời gian ngắn họ đã nổi loạn. Chỉ những người đã nghỉ hưu
mới hài lòng và tìm những lời khuyên về cách tiết kiệm và tiêu tiền của họ, đi du
lịch đến Thái Lan, mua sắm trên eBay, và lên trực tuyến để hẹn hò. Như vậy, cuộc
nổi dậy có thể đến từ nơi nào?
[…]
Đoạn Bốn
Có
một quảng cáo với nội dung: Tiền, tình dục, ma tuý – hãy chọn tiền.
Chúng
tôi chuyển từ đầu máy DVD sang máy chụp ảnh điện tử, máy nghe nhạc MP3, ADSL,
và màn truyền hình phẳng. Không thể ngừng cập nhật. Không làm như vậy có nghĩa,
phải tự đồng ý mình đã già. Dần dần, khi làn da bắt đầu biểu lộ vẻ già nua và
cơ thể cảm nhận được tác động của thời gian, thế giới đổ xuống những điều mới mẻ.
Chúng tôi đang ở trong giai đoạn suy tàn mà thế giới đang tiến lên, hai hướng
thật trái ngược nhau.
Những
thắc mắc nảy sinh từ sự xuất hiện của các công nghệ mới đã bị loại bỏ khi việc
sử dụng chúng trở nên tự động và không cần phải suy nghĩ. Những người không biết
sử dụng máy tính hoặc Discman sẽ trở nên lỗi thời, giống như những người không
thể sử dụng điện thoại hoặc máy giặt.
Trong
các viện dưỡng lão, các quảng cáo đưa ra một cuộc diễn hành vô tận các sản phẩm
và thiết bị cho những đôi mắt mờ của các cụ bà cao tuổi, họ không bao giờ tưởng
tượng được là họ sẽ cần và có lẽ, ít cơ hội sở hữu.
Thời
gian của các sự kiện khiến chúng tôi hoàn toàn bị chôn vùi. Sự cân bằng giữa chờ
đợi và chiếm hữu, thiếu thốn và đạt được, mà chúng ta đã duy trì từ lâu, đã bị
phá vỡ. Sự mới lạ đã ngừng thôi thúc và nhiệt tình, đã ngừng ám ảnh giấc mơ của
mọi người. Đó là khung cảnh đã quen. Có thể ý tưởng đơn thuần về "mới"
sẽ biến mất, giống như ý niệm về sự tiến bộ đã có, hoặc gần như đã có - đó là kết
thúc của chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu coi mọi thứ đều có tiềm năng vô hạn. Từ
người chết sang người sống, tim, gan, thận, mắt và da đã được cấy ghép; buồng
trứng được di chuyển từ tử cung này sang tử cung khác. Phụ nữ ở độ tuổi sáu
mươi đã sinh con, và việc căng da mặt sẽ ngăn chặn quá trình lão hóa. Mylène
Demongeot mà chúng ta đã thấy trong Be Beautiful nhưng Shut Up vẫn ở đó trên
truyền hình, không thay đổi kể từ khi bộ phim phát hành lần đầu tiên vào năm
1958.
Chỉ
đề cập đến nhân bản, những đứa trẻ được sinh ra trong tử cung nhân tạo, cấy
ghép não, thiết bị đeo tay giới tính và tình dục hoàn toàn không phân biệt đã
khiến tâm trí chúng ta quay cuồng. Chúng tôi đã bỏ qua thực tế rằng những thứ
và hành vi này sẽ cùng tồn tại với một hệ thống trước đó của mọi thứ, ít nhất
là tạm thời.
Chúng
tôi thoáng ngạc nhiên bởi mọi thứ đơn giản đến mức nào, điều này khuyến khích
người khác khen các sản phẩm mới phát hành bằng cách nói: "tuyệt vời!"
Chúng
tôi dự đoán rằng mọi người sẽ quen với những thứ trước đây đã không thể biết được
trong suốt cuộc đời, giống như họ đã quen với điện thoại di động, máy tính,
iPod và GPS trong một khoảng thời gian ngắn. Chúng tôi cảm thấy đáng lo ngại vì
không thể hình dung cách sống của mình trong mười năm nữa hoặc mức độ phù hợp của
chúng tôi đối với các
công nghệ mới (Một ngày nào đó, liệu chúng ta có thể nhìn thấy bên trong bộ
não, mọi thứ mà người đó đã làm, đã nói, đã thấy và đã nghe không?)
Mọi
thứ, bao gồm đồ vật, kiến thức và
"sự phán đoán của chuyên gia", đều rất phong phú trong thế giới chúng
ta đang sống. Bất kỳ chủ đề nào, bao gồm hành vi, cơ thể, khoái lạc và tử vong, đều là chủ đề được phản ánh ngay sau
khi sự kiện xảy ra. Tất cả mọi thứ đã được nói về và cởi mở. Có vô số cách để diễn đạt cuộc sống và cảm xúc
thành từ ngữ, chẳng hạn như "nghiện ngập", "khả năng phục hồi"
và "công việc giải quyết vấn đề". Không có gì còn sống vô ích nữa, có
thể là trầm cảm, say xỉn, lãnh cảm, biếng ăn, hoặc tuổi thơ khốn khó. Việc chia
sẻ kiến thức và tưởng
tượng làm hài lòng lương tâm. Các mô hình để thể hiện cái tôi bằng ngôn ngữ được
đưa ra bằng cách xem xét nội tâm tập thể. Bề rộng kiến thức phổ thông được mở lớn. Trẻ em học ở độ tuổi nhỏ
hơn, tâm trí trở nên linh hoạt hơn, và sự trì trệ của trường học đã làm học
sinh mất chú ý. Họ nhắn tin điên cuồng trên điện thoại di động. Với tất cả sự lẫn
lộn của các khái niệm, càng ngày càng khó tìm thấy một cụm từ của riêng cho mình, loại cụm từ mà khi thầm lặng, được lặp lại,
đã giúp cho người ta tiếp tục sống.
Trên
Internet, tất cả những gì cần làm là nhập một khoá từ vựng. Tiếp theo, hàng
nghìn “trang web” sẽ nhảy lên trên màn hình. Họ đưa ra những mẩu tin ngắn và những
đoạn văn thu hút đến với những phát hiện may mắn khác trong một cuộc truy cập
kho báu ly kỳ. Những viên đá quý thực sự đã bị ném trở lại vô số những thứ mà
chúng ta không hề tìm kiếm.
Có
vẻ như có thể nắm bắt toàn bộ kiến thức, nhập vô
số lượt xem trên các blog bằng một ngôn ngữ mới và tàn bạo. Chúng tôi có thể
nghiên cứu các triệu chứng của bệnh ung thư vòm họng, công thức nấu ăn
moussaka, tuổi của Catherine Deneuve, thời tiết ở Osaka, sự phát triển của hoa
cẩm tú và cần sa, ảnh hưởng của Nhật Bản đối với sự phát triển của Trung Quốc —
chơi poker, ghi phim và đĩa, mua bất cứ thứ gì từ chuột bạch, súng ru-lô đến
Viagra và dương vật giả, mua đi bán lại.
Nói
chuyện với người lạ, chế giễu họ và tham gia vào cuộc trò chuyện. Chúng quái gở,
không có giọng nói, không có mùi hoặc cử chỉ; chúng không chui vào dưới da của
chúng ta. Những gì chúng tôi có thể làm với chúng, theo quy luật trao đổi, mới
là điều quan trọng. Có thể có cả quyền lực và sự trừng phạt. Chúng tôi đã điều
hướng một thế giới của các đối tượng trừu tượng mà không có bất kỳ chủ thể nào.
Toàn cầu đã được biến đổi thành đối thoại một cách rực rỡ nhờ Internet.
(Trích trong chương 20.)
Ghi:
(1)
Chenlit: Dominique Venner, La chienlit: một hướng dẫn ngắn để phản đối trong
chính trị, tại trường đại học, trong nhà hát, trong rạp chiếu phim, trong bài
hát, trong nhà thờ; vv, Paris, 1969.
(2)
Có lẽ bà muốn ám chỉ tấm ảnh của phòng viên Mỹ chụp hình cô gái nhỏ trần truồng
chạy trên đường cái, phía sau lưng là bom đạn.
(3) Tôi dịch từ bản Anh ngữ, có nghĩa, phải chấp nhận những sai biệt giữa bản gốc tiếng Pháp và bản dịch tiếng Anh. Đồng thời, dịch sang tiếng Việt, một lần nữa phải tạo ra sự khác biệt với cả hai bản trước để có một bản tiếng Việt.