Từ số đầu tiên của Đặc san văn học Quán Văn 001 ra mắt ngày 1 tháng 10 năm
2011, lần đầu tiên tôi được đọc Ban Mai, một trong ba tác giả nữ hiếm hoi trên
31 tác giả có mặt trong tập san này, cũng với bài viết được lấy tên cho tập tùy
bút và phê bình xuất bản hôm nay, Dã quỳ
trầm lặng. Bài viết ngắn chỉ 7 trang khổ 13,5 x 20 của tập san nhưng mang
trong nó bao nhiêu là vui buồn riêng chung được tác giả lồng trong một chuyến
đi về đến xứ sở ngàn hoa, với bao nhiêu là khuôn mặt có tên lẫn không tên,
những gặp gỡ có hẹn lẫn không hẹn… Không gian cũng chuyển dịch liên tục: Đà
Lạt- Cali- Quy Nhơn, miên man theo dòng hồi tưởng của nhân vật kể chuyện “tôi’.
Có cuộc triển lãm tranh của họa sĩ Đinh Cường-Thân Trọng Minh ở Đà Lạt. Có buổi
trình diễn ở hội trường đại học Quy Nhơn 1998 của Trịnh Công Sơn và những người
bạn, rồi những đắng cay tác giả gặp phải khi làm đề tài về Trịnh Công Sơn… Ký
ức và thực tại lồng vào nhau, đan xen quấn quýt, chưa gỡ hết lớp này đã xoắn
xít những sự kiện tiếp theo, ngồn ngộn thông tin và cảm xúc. Cảm nhận ban đầu
ấy dường như ngày càng rõ nét qua Biết
đâu nguồn cội (2015) và hôm nay, Dã
quỳ trầm lặng (2019). Đầy sự kiện và cảm xúc. Đầy liên tưởng và hoài niệm.
Theo thời gian và những chuyến đi trong, ngoài nước, ghi nhận của Ban Mai cũng
mang nhiều màu sắc viễn du thú vị bất ngờ.
Mặc dù bản thảo tôi đã được gửi
qua email từ Jul 29 và nhiều bài tôi đã đọc không chỉ một lần trong
các số Quán Văn và Biết đâu nguồn cội với nhiều niềm
đồng cảm đặc biệt, nhưng cầm trên tay tập tuỳ bút và phê bình này
với sắc vàng ươm dã quỳ bạt ngàn quyến rũ do Đinh Trường Chinh vẽ
bìa và phụ bản... được trao từ tay chủ biên Nguyên Minh, tôi vẫn bị
cuốn hút háo hức một cách lạ lùng, đến nỗi dẹp cả những việc đang
dang dở, đắm chìm cùng sắc vàng mê hoặc mà tôi đã mấy mùa lỡ hẹn
ấy...
Hơn 400 trang sách thật ra không có
bông Dã quỳ nào, chỉ có Mimosa. Mà cũng đúng thôi, có lẽ chỉ là sắc màu dã
quỳ trong tâm thức tác giả chăng, vì tháng 8 đâu phải mùa của loài hoa này. Nhưng
vì sao tác giả chọn "Dã quỳ trầm lặng" đặt tên cho tác phẩm
thứ 3 này? Không phải “thầm lặng” cam chịu một cách bị động yếu
đuối mà hoàn toàn chủ động, như một sự chọn lựa cách thế viết và sống của
mình: "trầm lặng". Dã quỳ được coi là loài hoa dại nhưng tràn đầy
sức sống mãnh liệt, biểu tượng cho tình yêu chung thủy, một loài hoa kiêu
hãnh không bao giờ chịu khuất phục. Phải chăng Ban Mai cũng ngầm mượn biểu
tượng ý nghĩa của loài hoa hoang dại có tên wide-sunflowers này gửi
đến người đọc thông điệp cầm bút của mình? Phải chăng cũng chính là
một sự lựa chọn, một tâm thế nhập cuộc đầy suy tư nhưng cũng đầy
bản lĩnh của một người đã đi qua những thăng trầm được mất buồn vui
thế sự và điềm tĩnh ngắm nhìn nó bằng đôi mắt bao dung, xa xót,
ngậm ngùi, lẫn nhiều tiếc nuối khôn khuây...
Những vạt dã quỳ Đà Lạt vàng
rực trong tưởng tượng có lẽ đã theo tác giả suốt hành trình văn chương
và bè bạn phải chăng bắt nguồn từ cái trầm mặc lạnh buồn của bức
tranh anh Đinh Cường tặng cô ở Đà Lạt ngày ấy...
Tác phẩm còn thơm mùi giấy mới Dã quỳ trầm lặng dày 409 trang, in đẹp,
trình bày thanh thoát trang nhã, được chia làm hai phần: 37 Tuỳ bút và
13 bài Phê bình văn học. Một phụ lục “Ban Mai trò chuyện với tác giả
Kinh Khuya". Trong 220 trang tuỳ bút, người đọc có thể bắt gặp
hình ảnh quê hương xưa và nay trong tâm thức khắc khoải nhớ thương ray
rứt lặng trầm của người viết. Trong cô gái nhỏ ấy – cũng là nhân vật xưng
tôi - ở cả hai thể loại luôn có hai thế giới: Hôm qua - Hôm nay, Trẻ thơ -
Người lớn, Cái đã có - Cái đã mất...;
Cũng như luôn có hai lựa chọn đồng hành: Chấp
nhận - Phản kháng. Ranh giới không gian địa lý được mở rộng đến mênh
mông khắp ba miền Nam, Trung Bắc, trong đó có nhiều miền tác giả và bè
bạn Quán Văn đặt chân qua trong "Huế, ngày mưa" (tr.37),
"Hà Nội ba mươi sáu phố phường" (tr.27), "Đất phương
Nam" (tr.158)... Và tất nhiên, tuy không gọi tên ra, nhưng Quy Nhơn
chôn nhau cắt rốn của tác giả, mọi khoảnh khắc sáng, trưa, chiều, tối
đến đêm khuya cứ hiện hữu qua nhiều ký ức đẹp đã phôi pha: "Quê
nhà tôi", "Người cha", "Mái nhà xưa", "Xuân
xưa", "Tiếng rao đêm", "Phú xích lô"... Những cuộc
đời, những số phận trong cơn cuồng phong của lịch sử đắng chát qua từng dòng
chảy sự kiện rất thực và nhức nhối tận cùng. Lồng trong những ký ức đó là
hình ảnh sinh hoạt nền nếp của một gia đình miền Nam trước 1975. Tùy
bút là thể loại cho phép người viết được thả trôi cảm xúc, để cho ngòi bút tuỳ
theo ý thích của mình, không bị bó buộc chủ đề gì cả, thường là miêu tả cảm xúc
của tác giả về vấn đề nào đó… Tùy bút của Ban Mai còn đậm chất ký của báo chí
bởi ngồn ngộn sự kiện liên tục chồng chất trong mạch cảm xúc. Đồng thời cũng
mang dáng dấp tự truyện. Có vẻ như tác giả hoàn toàn ý thức điều đó. Tự truyện
của Ban Mai nhìn rộng ra lại không chỉ là câu chuyện của một cá nhân mà nhiều
truyện còn mang chất tư liệu lịch sử dẫn dắt mạch liên tưởng của người đọc về
cả một giai đoạn không thể nào quên trên đất nước mình trước và sau 1975.
Ban Mai cũng là ngòi bút không ngừng
chuyển dịch. Mỗi chuyến đi, tác giả đều nhặt nhạnh ghi giữ lại nhiều cảm nhận
sắc sảo cả về văn chương lẫn lịch sử vùng miền ấy. Bên cạnh nhiều vùng đất quê hương Nam, Trung, Bắc từng đặt dấu chân, Dã quỳ trầm lặng còn được bổ sung so với
Biết đâu nguồn cội một loạt bài viết
từ thực tế những chuyến du hành (cũng có thể nói là độc hành) qua khắp
nhiều nước Châu Âu và để lại dấu ấn trong ngòi viết sắc sảo tả mà
như kể, như bình của Ban Mai trong "Thánh địa xứ Lourdes",
"Paris – mùa hạ", "Đức quốc – Đêm có màu xanh thẫm",
"Lạc vào xứ thần tiên", "Thành phố cổ Salzburg", "Một
tuần trên đảo Palma Tây Ban Nha"... Một Châu Âu đẹp lộng lẫy như cổ tích, mà
cũng đầy biến động âu lo, mỗi vùng miền đều có những sức hút lạ lùng giúp người
đọc khám phá thêm một Châu Âu gần hơn, thực hơn và đậm chất văn hóa hơn qua góc
nhìn của Ban Mai, một tâm hồn luôn khát khao vươn tới cái đẹp và những giá trị
nhân bản của con người.
Phần Phê bình (tr.226-409) tuy dung
lượng số trang, số bài có ít hơn phần dành cho Tuỳ bút nhưng mỗi đối
tượng được chăm chút, trau chuốt công phu hơn hẳn. Đó là kết quả đọc
và cảm nhận văn chương kiểu đi tìm trầm tích. Ban Mai chắt lọc từng
dòng, đắn đo từng nhận định khi đặt các tiêu đề bài viết của mình.
Kiến thức văn chương chắc, rộng (có lẽ nhờ ham đọc sách từ nhỏ
và... điều kiện gia đình có tiệm bán sách). Kinh nghiệm đọc sẵn có
kết hợp với thực tế tiếp cận đối tượng nghiên cứu, trực tiếp lẫn
gián tiếp, chấm phá hay tỉ mỉ,... của tác giả đều đem lại cho mỗi
chân dung một nét độc đáo theo cách cảm, góc nhìn riêng của Ban Mai.
Tương tự như phần tùy bút - tự truyện, phê bình cũng không rập khuôn theo một
công thức bó buộc nào. Song cũng có thể thấy rõ sự nhập cuộc của người viết
luôn được thể hiện trong trang viết tuy không đậm đặc như phần tùy bút. Những
khuôn mặt của văn chương miền Nam trước đây và một số cây bút thế hệ
sau trong - ngoài nước hiện lên khá đa dạng qua cách nhìn cảm thông,
ngưỡng mộ của tác giả Dã quỳ trầm
lặng: “Nguyễn Bắc Sơn - gã giang hồ hảo hán”, “Cung Tích Biền và Xứ động
vật màu huyết dụ”, “Nguyễn Đức
Sơn - lão quái dị trên đồi Phương Bối”, “Trịnh
Công Sơn và chiến tranh Việt Nam”, “Lữ
Quỳnh - Nơi đâu là chốn quê nhà”… Tâm thế đồng điệu, tri âm giúp cho chân dung buồn
và đẹp của các cây bút trên dù chỉ là một vài lát cắt nhưng đều mang những giá
trị nhân văn sâu sắc trong nền chung là bức tranh u ám khốc liệt của chiến
tranh. Thử đọc một đoạn tác giả viết về những dằn vặt trong tác phẩm Lữ Quỳnh:
“Ta là ai? Quê hương ta ở đâu? Chỗ đứng của ta trong thế gian này là gì?”
(tr.265) và đau đớn nhận ra “Như một con thú hoang, họ ngụp lặn trong một cuộc
sống mà không biết đâu mới là chốn quê nhà.” (tr. 266). Dụng công của tác giả
cũng được dồn nén ở các đoạn kết. Nhiều phần kết trong các bài viết đều pha chút
màu sắc triết luận ngậm ngùi: “Chiến tranh rồi sẽ qua đi, có những nỗi đau theo
thời gian sẽ khép lại, nhưng với một đứa con lai bị bỏ rơi từ hai phía thì nỗi
đau về cuộc chiến mãi mãi là vết thương nhức nhối theo suốt cuộc đời.” (tr.266).
Tôi thích những trang viết đầy
đặn về cây bút Quán Văn vừa có tác phẩm trình làng xúc động “Đặng
Châu Long – một thế hệ vong thân”. Không
ngờ gia tài văn chương của anh phong phú qua nhiều thể loại thơ, ký,
tản văn và cả dịch thuật... Ban Mai còn đi vào tận cùng mọi ngóc
ngách tiểu sử, đời sống để lý giải phong cách viết đằm thắm mượt mà,
phong cách sống trầm tĩnh điềm đạm mà ân tình của tác giả. Cùng cách
nhìn đó, Ban Mai viết về “Mang Viên Long - một
thế hệ buồn”cũng đầy cảm thông và
trân trọng. Tuy nhiên, hai cụm từ thế hệ vong thân hay thế hệ buồn tác giả đặt tựa cho bài nhận
định về cuộc đời và văn chương hai tác giả không khỏi để lại trong lòng người
đọc một chút băn khoăn khó phân biệt ranh giới của hai khái niệm này. Bởi cả
hai cùng miêu tả lại tiểu sử, chiến tranh, những bi kịch mất mát và sự vượt qua
chính mình để vẫn là chính mình. Vong
thân là khái niệm căn bản trong triết học Hegel, một triết gia duy tâm nổi
tiếng người Đức vào cuối thế kỷ thứ XIX. Theo GS Nguyễn Văn Trung, “Vong thân
bày tỏ tình cảnh con người đánh mất hay bị mất bản thân, bản ngã của mình. Mất
ở đây không phải là không còn nữa, vì bị tan vỡ, trở thành không có nhưng là bị
biến thể. Bản thân vẫn còn có, nhưng bị tách khỏi mình, trở thành khác mình và
hơn nữa trở thành xa lạ, đối lập với chính mình.” (Đưa vào Triết học, phần
5, Nxb Nam Sơn, 1972). Có lẽ bởi những tâm trạng tự thuật thành lời của tác giả
Đặng Châu Long: “Tôi có gì vui khi dòng sống tôi đã biến đi vào năm tôi hai
mươi lăm tuổi (…) Tôi không còn chiếm hữu khát khao tôi mà chỉ còn lại gió
chướng đời, từ dạo ấy. (…) Cho đến ngày cuối…tôi mất hẳn tôi. Tôi đã tự biến
mất tôi bằng những cơn lặng lẽ đớn đau dù tôi vẫn là tôi khi sống cùng người,
những người khốn khổ quanh tôi.” (tr.245)? Tôi lại nghĩ về khái
niệm The Lost Generation- Thế hệ mất mát trong
văn chương Hoa Kỳ mà Ernest Hemingway viết về thế hệ những con người bị mất mát
cả thể xác lẫn tâm hồn sau khi đi qua chiến tranh…
Tác
giả cũng dành nhiều trang yêu mến cho nhà văn nữ đặc biệt, nhà văn Milano-
Italy và mối duyên hi hữu đã thành “con dâu Tây Sơn”, “con gái QV”, cây bút yêu
mến của Quán Văn trong: “Elena Pucillo Truong – từ sông PO đến sông CÔN”. Ngoài những nhận xét về con người, cuộc
đời được tác giả cho là viết theo cảm xúc tình bạn, tôi cho rằng đoạn kết đầy
chất văn mượt mà này hoàn toàn khách quan và chính xác:
“Từ
Đông sang Tây, từ dòng sông Po mềm mại, chảy qua những ngôi nhà đầy sắc màu rực
rỡ nước Ý, với màu hồng tím của những ô cửa sổ đầy hoa đến dòng sông Côn êm đềm
chảy trên đất Bình Định, hai bên bờ sông đồng lúa xanh biếc sau những ngôi nhà
mái ngói, ruộng cải nở hoa vàng óng là một kết nối kỳ diệu cho sự thăng hoa
nghệ thuật của anh chị Trương Văn Dân và Elena Pucillo Truong.
Chính
yêu thương đã kết nối yêu thương.”
(Dã quỳ trầm lặng, tr.254)
Hai bài “Đặng Thơ Thơ – Hành trình đi
tìm bản kinh thánh cuối” và
"Trần Vũ và Giáo sĩ trong thế giới huyền ảo" là hai bài phê bình
dầy dặn cả về dung lượng kiến thức lẫn sự khám phá mới mẻ thực sự làm tôi
ấn tượng, cách giới thiệu phân tích cuốn hút của Ban Mai khiến tôi tìm đọc
nhiều hơn Đặng Thơ Thơ, cũng như đưa tôi tìm đến văn chương Trần Vũ từ khi
xuất hiện trên Quán Văn. Hai bài cuối khá bất ngờ là phê bình về 2
tác phẩm thuộc nền văn học Trung Hoa: Ma
chiến hữu của Mạc Ngôn và Chốn
xưa của Lý Nhuệ khá công phu đặt trong mối liện hệ hai nước trong
tình hình Trung Quốc không ngừng xâm lấn biển Đông của chúng ta hiện nay
là một cách đọc có ý thức đặc biệt của người viết, rất đáng trân
trọng. Ý thức đó thật ra được gửi gấm bàng bạc trong nhiều trang viết của Ban
Mai cả ở phần tùy bút khi chua chát, đớn đau buột lên trong một câu kết: “Chiến
thuyền của cha ông, nay đã vỡ.” (tr.181)
Bi kịch Trịnh Công Sơn cũng là
một day dứt triền miên trong từng dòng chữ của Ban Mai. “Với cái nhìn
tỉnh táo, Trịnh Công Sơn đã nhận ra thân phận “nô lệ da vàng” của người Việt
trong chiến tranh” (tr.318) (...) Chúng ta hãy tự hỏi: thân phận da vàng người
Việt ngày nay đã thực sự thoát đời nô lệ ngoại bang chưa? (tr.320). Nhức nhối.
Thống thiết. Làm sao có thể quên hình ảnh đớn đau, phẫn nộ Trịnh Công Sơn từng
dự cảm và khắc khoải:
Người nô
lệ da vàng
Ngủ quên, ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ
Ngủ quên, quên nước quên non
Ngủ quên, quên đã bao năm
Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dân ta
Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do.
(Đi tìm quê hương - 1967)
Ôi định
mệnh chăng? Đêm dài trên quê hương tôi, thân phận nhược tiểu của người dân Việt
triệu triệu năm xưa triệu triệu năm này ngơ ngác bao lần nỗi nhức nhối da
vàng...
Đặt tên khá ấn tượng, miêu tả tự
nhiên, phân tích bình luận chừng mực, văn phong mượt mà tinh tế giàu
cảm xúc, cảm nhận có chiều sâu và phảng phất niềm hoài cổ, phản
kháng thực tại... chạm đến nhiều phận đời, nhiều góc khuất của tâm
hồn là sức hút những trang tuỳ bút của Ban Mai.
Song, tiêng tiếc một chút, có bài
tuỳ bút nếu gọi là phê bình có lẽ tác giả sẽ đi sâu những giá trị
văn chương và chân dung Nguyễn Mộng Giác hơn trong "Nụ cười bình
yên", hay có bài gọi là phê bình nhưng 6 trang chỉ nhận định lướt
qua về tiểu sử, đề tài, nhân vật khoảng 2 trang, trọng tâm còn lại
nghiêng về con người, cuộc đời tác giả hơn là tác phẩm... (tr. 249-254).
Cũng tiêng tiếc một chút nữa, những tản văn ngắn ngắn chỉ hơn 2 trang, nếu được
chắt lọc hơn hoặc gộp lại theo một tư tưởng chủ đề tập trung hơn sẽ không tản
mạn, chuyển tải nhiều hơn nữa những câu chuyện đời chuyện người và thông điệp
người viết muốn gửi đến bạn đọc cũng có độ sâu lắng hơn.
Gấp sách lại, điều Dã quỳ trầm lặng gửi đến người
đọc có lẽ không dừng ở chuyện chữ nghĩa. Những day dứt tức tưởi,
những hoài niệm yêu thương, những khát khao khắc khoải, những hy vọng
thâm trầm, dịu dàng rực rỡ màu dã quỳ cứ đọng lại trong tôi...
Yêu mến Dã quỳ trầm lặng và tác giả của nó chính là ở phần chìm của tảng
băng ấy.
Hoàng Kim Oanh