Nhà
văn Trần Doãn Nho tên thật là Trần Hữu Thục. Ông dùng bút hiệu Trần Doãn Nho
cho những sáng tác văn chương và lấy tên thật làm bút hiệu khi viết tiểu luận.
Là một tác giả quen thuộc trên văn đàn miền Nam từ trước 1975 và cho đến hiện
nay ở hải ngoại. Đã tốt nghiệp Đại học Huế ngành Triết năm 1968. Tiếp tục theo
bậc cao học tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn cho đến cuối năm 1969, ông được Đại học
Huế mời về làm Phụ khảo Triết. Khi hết hạn hoãn dịch, thay vì xin gia hạn, ông
chọn nhập ngũ, thuộc khóa 6/70 trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường, chỉ vỏn vẹn
làm Hành chánh Quân y 3 tháng, rồi được biệt phái trở về dạy Đại học Huế. Trước
năm 1975, ông đã cộng tác với các tạp chí văn học ở Sài Gòn như Văn, Vấn Đề, Khởi
Hành, Bách Khoa, Tân Văn, Đối Diện. Sau tháng Tư Đen, như tất cả các sĩ quan và
viên chức chế độ VNCH, ông bị tù cải tạo cho đến năm 1981 và 12 năm sau, 1993,
cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Trên mảnh đất dung thân mới,
ông cầm bút trở lại và cộng tác với nhiều tạp chí văn học và website hải ngoại
như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn, Gió Văn, Talawas, Gió O,
Người Việt. Ông đã xuất bản các tác phẩm cả về văn, thơ, tạp bút, tiểu luận
[1] và gần đây nhất là Tuyển tập Tiểu luận “Cõi Chữ Cõi Người” gồm hai tập:
■
Tập I: Biên khảo về văn chương và văn học.
■
Tập II: Biên khảo về chính trị, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ.
được
“lựa chọn trong nhiều bài viết đủ loại, từ văn học, văn chương cho đến xã hội,
chính trị và ngôn ngữ, đăng tải rải rác trên nhiều tạp chí giấy và mạng trong gần
30 năm qua, được ký, khi thì Trần Hữu Thục, tên thật, khi thì Trần Doãn Nho,
bút hiệu, vốn thường sử dụng cho các sáng tác văn hay thơ. Để tránh những ngộ
nhận không cần thiết xảy ra, tác giả đã sử dụng cả hai tên trong tập sách” như
tác giả đã trình bày nơi lời Mở của hai tập sách này.
Tập
1 gồm có các bài viết sau đây:
■
Xuân Tình Trong Đường Thi
■
Tác Giả:
Cuộc Thăng Trầm
■
Đọc Sách: “Lý Thuyết Trung
Hoa Về Hư Cấu” Của Ming Dong Gu
■
Tự Lực Văn Đoàn và chuyện văn phong
■
Tính “Văn Học” Trong Văn Học Miền
Nam
■
Theo Dấu Nhân Vật
■
Giữa Văn Và Thơ
Và
tập 2 gồm các bài:
■
Hiện tượng chống Mỹ
■
Vấn đề tự do diễn đạt
■
Khía cạnh
ngôn ngữ trong “Phong trào Dù” Hồng Kông
■
Về một đất nước mang tên Việt Nam Cộng Hòa
■
Donald Trump, kẻ lạ mặt
■
“Nội Chiến” Ngôn Ngữ Ở
Ukraine
■
Từ Coronavirus Đến “Dịch Hạch” Của Albert Camus
■
Chuyện trái tim
Phần
cuối của mỗi tập là tài liệu tham khảo và giới thiệu tác giả cùng tác phẩm.
Trần
Doãn Nho tốt nghiệp đại học khoa triết, là nhà văn và cũng từng là nhà giáo,
nên mỗi một tiểu luận đều được trình bày khúc chiết, chặt chẽ. Ông có lợi thế
là ngoài tiếng Việt, ông còn biết tiếng Anh, tiếng Pháp nên đã tìm hiểu rất sâu
từng vấn đề mà ông muốn trình bày. Cứ nhìn phần tham khảo được in sau mỗi cuốn
sách sẽ rõ: từ Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Hiến
Lê, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Hưng Quốc... cho đến Jean-Paul Sartre, Alain
Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Ming Dong Gu, Noam Chomsky, Vladimir Putin,
v.v... Có thể nói đây là nguồn tài liệu rất phong phú giúp độc giả hiểu biết
hơn về đời sống văn hóa, chính trị và xã hội chung quanh.
Chẳng
hạn, ở tập 1, với “Xuân tình trong Đường thi” viết về Hàn Ốc, bạn sẽ biết được
thời Vãn Đường “sự phát huy thi ca khuê tình đời Đường đến một mức độ táo bạo
không ngờ” (sđd tr. 19). Nhà thơ Hàn Ốc “bất chấp thi giáo, dám làm trái lễ
nghĩa phong kiến, mô tả một cách trần trụi quan hệ nam nữ trong thơ” (sđd tr.
21). Nhà văn Trần Doãn Nho (TDN) cũng giới thiệu cuốn sách “Lý Thuyết Trung Hoa
Về Hư Cấu” Của Ming Dong Gu” (MDG), là tác giả khá nổi tiếng trong giới hàn lâm
Hoa Kỳ, Trung Quốc cũng như Đài Loan, dạy tại nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ và
viết nhiều tiểu luận bàn về văn học đối chiếu giữa Đông và Tây (sđd tr. 75). MDG
muốn “hệ thống hóa lý thuyết văn chương Trung Hoa, bắc một nhịp cầu giữa văn
chương Trung Hoa cũ và mới, giữa Trung Hoa và Tây phương, giữa truyền thống và
hậu hiện đại. Từ đó, ‘quốc tế hóa’ lý thuyết truyện hư cấu Trung Hoa đưa nó hòa
nhập vào trào lưu hư cấu toàn cầu” (sđd tr. 76).
Hay
“Tự Lực Văn Đoàn và chuyện văn phong” nói đến quan niệm viết văn của Nhất Linh
và Thạch Lam, cùng giới thiệu văn phong tiêu biểu trong văn chương Việt Nam kể
từ thời đổi mới đầu thế kỷ 20, để thấy công lao rất lớn của TLVĐ “đã tạo nên một
bước ngoặt thẩm mỹ cho nền văn chương Việt Nam. Đó là cuộc cách mạng văn phong,
vượt thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thứ văn biền ngẫu, đăng đối, sáo mòn, đầy dẫy
những từ ngữ Hán Việt cùng những lối nói văn hoa rỗng tuếch... Và sáng tạo ra một
cách viết mới chịu ảnh hưởng của Tây phương nhưng hoàn toàn thấm nhuần ngôn ngữ
Việt” (sđd tr. 140).
Ở
“Tính ‘Văn Học’ trong Văn Học Miền Nam”, tác giả muốn đả phá quan niệm chật hẹp
và độc đoán của nhà cầm quyền cộng sản gọi Văn Học Miền Nam là “văn học thực dân
mới”, “văn học đồi trụy”, “văn học phản động” hay sau này, nghe lịch sự hơn
nhưng có vẻ xách mé, là “văn học đô thị” (sđd tr. 147). Ông bàn về Văn Học Miền
Nam “bằng một cái nhìn khác, tổng quát hơn, ‘văn học’ hơn, nghĩa là rộng rãi
hơn, đa dạng hơn”, để đi đến kết luận: “Nếu
văn học miền Bắc là đơn nhất, là một khối, một tảng và là một công cụ hữu hiệu
bảo vệ chế độ thì ngược lại, Văn Học Miền Nam là một thứ kính vạn hoa. Nó soi rọi
từng chân dung, từng số phận, từng hoàn cảnh, từng ngóc ngách của cuộc sống. Do
đó, nó không thể trở thành công cụ của nhà cầm quyền... Nó không những phát triển
theo chiều hướng riêng của nó, mà còn bảo lưu các tác phẩm văn học cổ điển, văn
học tiền chiến, những tác phẩm văn học khác trước năm 1954 cũng như các tác phẩm
của Nhân Văn Giai Phẩm” (sđd tr. 174, 175).
“Theo
dấu nhân vật” được TDN viết lại hoàn toàn mới từ bài gốc “Nhân vật tiểu thuyết”
được đăng tải 24 năm trước đây trên tạp chí Văn Học (California, Hoa Kỳ) số
147, tháng 7/1998, và sử dụng nó như một tài liệu tham khảo, do nguồn tài liệu
mới có sẵn và cũng do cách nhìn thay đổi. Độc giả sẽ hiểu khái niệm nhân vật
qua từng thời kỳ: Trung cổ, tân tiểu thuyết, hậu hiện đại, hậu hậu-hiện-đại.
Tác giả kết luận: “không có con người thì không có nhân vật; không có nhà văn cũng
không có nhân vật. Và không có nhân vật thì cũng chẳng có văn chương... Sự khai
sinh ra (những) nhân vật và những gì vây quanh nó là một quá trình sống động:
tương quan hỗ tương giữa tác giả - con người - chữ nghĩa. Nhân vật, như thế,
không đến từ hư vô. Nó được tác giả tiếp nhận, thai nghén, nuôi dưỡng lâu (và
có thể rất lâu), ở giữa người đời và đời người trước khi được hóa thân thành chữ
trên giấy/màn hình” (sđd tr. 225).
Ở
tập 2, nói về Hiện tượng chống Mỹ (HTCM), TDN phân tích rồi tỉ mỉ giới thiệu Lịch
sử của HTCM qua năm giai đoạn tính từ giai đoạn sơ khai cho đến chiến tranh lạnh,
ở các nước Á Rập, châu Mỹ La Tinh, Âu châu, Pháp và ngay cả trên nước Mỹ. Ông
cho hay, “Từ lâu, người quốc gia Việt Nam, ... không ngần ngại đổ lỗi sự thất bại
của VNCH cho những người có thẩm quyền trong chính giới Mỹ ... hay nói chung,
cho sự thất hứa của chính quyền Mỹ đối với các cam kết bảo vệ miền Nam... Nhưng
không mấy ai nhận ra rằng, đàng sau sự thất hứa đó, là tác động tích cực của giới
trí thức chống chiến tranh Mỹ mà Chomsky đứng ở hàng đầu vì mỗi bài báo, bài diễn
thuyết hay lời hô hào của Chomsky đều là cú đấm ngàn cân vào các nỗ lực của Mỹ
và của VNCH trong cuộc chiến” (sđd tr. 49-50).
Hay
khi nói về “Vấn đề tự do diễn đạt” bấy lâu chúng ta vẫn nghĩ nạn nhân đầu tiên
là ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch vào khoảng năm 221, thời Tần Thủy
Hoàng (phần thư khanh nho) (sđd tr. 74). Nhưng chính nhà hiền triết Socrates
(469-399 BC) mới là nạn nhân đầu tiên của chế độ kiểm duyệt, vì không thờ phượng
những thần thánh mà thành phố thờ phượng, lại đưa vào những thần thánh của
riêng mình, và làm hư hỏng giới trẻ. Ông bị buộc uống thuốc độc chết vào năm
399 (trước CN) (sđd tr. 75). “Nhưng có thể nói, không ở đâu mà chế độ kiểm duyệt
kéo dài lâu nhất, tinh vi nhất, khắc nghiệt nhất bằng chế độ kiểm duyệt ở nước
Nga Xô Viết” (sđd tr. 82). “Bây giờ, khối Xô Viết đã tan rã, chủ nghĩa cộng sản
bị phá sản, nhưng chính quyền cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn xem các luận điểm
của Lenin là bảng chỉ đường” (sđd tr. 87). Tác giả kết luận: “... trong cái thế
giới mở của ngày hôm nay, tự do phát biểu đã dần dần trở thành chuyện thường
ngày. Dù sớm dù muộn, nó phải diễn ra, và là một điều không thể tránh khỏi. Chống
lại tự do diễn đạt rõ là chống lại chính mình, chống lại chính cái quyền mỗi
người đều có trong cuộc sống” (sđd tr. 93, 94).
“Khía
cạnh ngôn ngữ trong ‘Phong trào Dù’ Hồng Kông” giúp độc giả hiểu tường tận hơn
về phong trào Dù, biểu trưng cho cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ của nhân dân,
nhất là giới trẻ Hồng Kông, yêu cầu Bắc Kinh giữ lời hứa “Một quốc gia, hai hệ
thống”, cho phép bầu cử tự do, chống chính sách đại lục hóa... mà đỉnh điểm của
nó là vào năm 2014. Tác giả giải thích ý nghĩa của danh xưng Cách mạng Dù trên
hai tấm bích chương được viết bằng hai cách khác nhau: “Vũ tán cách mệnh” (viết
theo tiếng Quan thoại / Mandarin, là thứ ngôn ngữ các sinh viên học sinh học ở
nhà trường và sử dụng trên báo chí) và “Già đả cách mệnh” (viết theo tiếng Quảng
/ Cantonese, thứ tiếng được sử dụng hầu như khắp nơi ở Hồng Kông) cho thấy đầy
cả ẩn dụ nằm đằng sau cách sử dụng ngôn ngữ! (sđd tr. 97 – 99).
“Về
một đất nước mang tên Việt Nam Cộng Hòa”, tác giả giới thiệu hồi ký của giáo sư Nguyễn Văn Trung, một trí thức khuynh tả
thời VNCH, để nêu lên tính chất ưu việt của thời ấy. Chẳng hạn, Miền Nam đã có
những lựa chọn trật tự cao hơn (đạo lý tình người thay vì pháp lý chính trị). Họ
không tố cáo anh em bạn bè trong tổ chức Việt Cộng, thậm chí còn cho tá túc
trong nhà. Con cái của một người đi theo cộng sản chẳng gặp khó khăn gì trong
việc học hành, thi cử, kể cả được cấp học bổng du học... Tôi không khỏi không
nhớ đến “Vũ Hạnh, một cán bộ CS nằm vùng trong Bách Khoa, từng bị bắt vào tù
nhiều lần, nhưng đều được các văn hữu “với tấm lòng” cứu ra, trong số đó phải kể
tới Linh mục Thanh Lãng chủ tịch Văn Bút, chủ nhiệm (Bách Khoa) Lê Ngộ Châu đã
vận động để Vũ Hạnh được thả ra để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai hoạt động.
Sau 30/4/1975, Vũ Hạnh chính thức lộ diện là một cán bộ cộng sản và, như một
hung thần, Vũ Hạnh lập thêm công trạng bằng cả một danh sách chỉ điểm cho “cách
mạng” truy lùng bỏ tù hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam còn kẹt ở lại, trong đó
có cả những người đã từng ký tên đòi trả tự do cho Vũ Hạnh khi đang trong vòng
lao lý.” [2]
Theo
giáo sư Nguyễn Văn Trung, Văn học Nghệ thuật là mặt xuất sắc nhất của VNCH. Những
nhà văn, nhà trí thức miền Nam có thể viết bất cứ cái gì mà không phải bận tâm
mấy về an ninh bản thân. Họ chỉ bận tâm về “viết cái gì” và “viết thế nào”, chứ
không phải về “có thể viết được hay không” (sđd tr. 121 – 124). Nghĩa là thời
VNCH, các nghệ sĩ sáng tác chỉ lo “viết” mà không cần phải “lách” như thời buổi
hiện nay. Họ được tự do sáng tác, là một trong những yếu tố rất cần thiết trong
sáng tạo. Bởi thế, nên sau 1975, “tuy nhà nước cộng sản tìm mọi cách hủy diệt nền
văn học nghệ thuật VNCH nhưng rốt cuộc nó không những không biến mất mà còn dai
dẳng tồn tại và được trân trọng bảo tồn ở cả hai miền Nam Bắc. Càng về sau, văn
học miền Nam càng được đánh giá một cách tích cực từ những nhà nghiên cứu
chuyên môn cho đến ngay cả từ chính nhà cầm quyền cộng sản” (sđd tr. 127). Thêm
nữa, nhạc vàng của miền Nam đã hồi sinh mạnh mẽ “không chỉ bằng nhạc mà bằng cả
chính các ca, nhạc sĩ một thời xây dựng nên không khí VNCH... Văn học nghệ thuật
quả đã mang VNCH lừng lững đi vào, đi sâu trong lòng đất nước” (sđd tr. 135)
... Tác giả đã dùng nhận định của Giáo sư Nguyễn Văn Trung để kết luận, ‘Cái gọi
là “đổi mới [hiện nay] chẳng qua là trở về những cái cũ đã bị phủ nhận.’ Hiểu
như thế, VNCH không phải là quá khứ, mà chính là tương lai. Là mô hình của một
Việt Nam đổi mới, dân chủ, tự do” (sđd tr. 139).
“Donald
Trump, kẻ lạ mặt” mang nhiều tính chất thời sự, tổng hợp của bảy (7) bài viết của
TDN về cựu tổng thống Donald Trump kể từ ngày ông xuất hiện trên chính trường
Hoa Kỳ vào năm 2015 cho đến tháng 2/2021, được tác giả nhuận sắc và cập nhật bằng
những tin tức mới nhất, với diễn tiến từng giờ phút nghẹt thở của ngày lịch sử
6/1/2021. Tác giả cố gắng dựng lại chân dung sống động của một nhân vật lịch sử
đương đại, vị tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ, “một tổng thống phá cách mà trong
suốt nhiệm kỳ bốn năm, cả thế giới gần như chao đảo theo ông, do những hành vi
hay phát ngôn bất ngờ và bất thường. Trump đã để lại một dấu ấn riêng biệt, sâu
đậm trong chính trường Hoa Kỳ và thế giới. Dù đúng hay sai, hợp lý hay không hợp
lý, tiêu cực hay tích cực, những quyết định của ông đã làm thay đổi bộ mặt nước
Mỹ và thế giới. Trump không những không tìm cách tự điều chỉnh mình để thích ứng
với thế giới và với vai trò tổng thống của Mỹ như một siêu cường, mà buộc thế
giới và nhân dân Mỹ phải thích ứng với chính bản thân ông. Chính điều này đã
làm cho Trump thành công mà đồng thời cũng khiến cho Trump thất bại” (sđd tr.
189). Đây là một bài viết rất lý thú giúp người ít theo dõi chính trị như tôi
hiểu cách ứng xử của Mr. Trump và cuộc bạo loạn ngày 6/1/2021.
“Nội
Chiến Ngôn Ngữ Ở Ukraine” nói đến nguyên nhân lịch sử dẫn đến ngày 24/2/2022
khi Putin ra lệnh mang 150 ngàn quân tấn công Ukraine. Sau hàng thế kỷ bị
Nga-hóa từ thời Peter the Great (1672-1725), cho đến khi chế độ Liên Xô sụp đổ,
tiếng Ukraine hầu như bị loại trừ ra khỏi mọi sinh hoạt công cộng trong một thời
gian dài... “Với tinh thần yêu nước nồng nàn và với một sự nghiệp văn chương lớn
lao được sáng tác bằng tiếng Ukraine, Taras Shevchenko đã được người dân
Ukraine tôn vinh như là người tái thành lập quốc gia Ukraine hiện đại” (sđd tr.
197). Tác giả kết luận, “Quả thật là có một cuộc “nội chiến” ngôn ngữ giữa tiếng
Ukraine và tiếng Nga. Nhưng... Ukraine sẽ tồn tại như một quốc gia độc lập với
ngôn ngữ riêng biệt của nó, bất chấp mọi ý đồ của Nga... Cuộc chiến đấu kiên cường
hiện nay của chính phủ và nhân dân Ukraine tự nó là một phản bác hùng hồn luận
điểm ‘On the Historical Unity of Russians and Ukrainians’ của Vladimir Putin!”
(sđd tr. 212).
“Từ
Coronavirus Đến ‘Dịch Hạch’ Của Albert Camus” tìm hiểu về đại dịch Covid-19 thời
mới xảy ra cách đây 3 năm. Tác giả so sánh nó với trận dịch hư cấu trong La Peste
của Albert Camus để kết luận “cả nhân loại đang sống trong cõi phi lý của
Albert Camus! Như lời Alain de Botton viết: (Camus) nhận ra rằng mọi người đều
mang cái dịch bệnh này trong chính mình, bởi vì không ai, không một ai trong thế
giới là được miễn nhiễm cả” (sđd tr. 226, 227).
Trên
đây tôi chỉ giới thiệu một số bài tiêu biểu. Phần còn lại xin dành cho bạn đọc tự
khám phá những bài thú vị, yêu thích của riêng mình.
Khi
trả lời phỏng vấn của nhà thơ Phạm Cao Hoàng về việc “... viết tiểu luận phê
bình văn học và biên khảo là công việc anh đầu tư thời gian và công sức nhiều
nhất. Vì sao anh lại đi vào con đường gai góc này?”, nhà văn Trần Doãn Nho cho
biết: “Về mặt viết biên khảo hay nhận định văn học, anh nói đúng. Đó là lãnh vực
đòi hỏi thời gian nhiều nhất: sưu tầm tài liệu, ghi chép, hệ thống hóa suy
nghĩ... Viết một bài như thế đôi khi mất cả vài tháng, có khi cả năm. Khác với
làm thơ hay viết truyện, viết biên khảo hay nhận định không dựa vào cảm hứng,
mà dựa vào tài liệu và suy luận. Phải cẩn thận khi trích dẫn, hay phê phán, và
ngay cả khi khen ngợi một ai đó. Nhìn lại, thấy những gì mình viết được còn quá
khiêm tốn, về cả lượng lẫn chất. Tôi đã tập tễnh viết biên khảo, nhận định từ hồi
mới lên đại học. Vả lại, tôi học triết, mê triết, nên đã có thói quen này.
Thành thật mà nói, khó thì khó, nhưng gai góc thì không hẳn là gai góc. Nghề
nào nghiệp đó. Thời đi dạy tôi phải soạn cours để dạy, nên dần dần viết lách kiểu
đó trở thành thói quen. Nhưng nói chung, viết được là một chuyện, viết cho ra
trò lại là một chuyện khác. Tôi chỉ cố gắng, nỗ lực trong khả năng của mình.” [3]
Trích
như vậy để thấy tác giả đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho bộ sách này
được tuyển chọn từ những bài viết với những luận điểm sắc bén, chi tiết, công
phu, tỉ mỉ trong gần 30 năm qua. Thậm chí, nếu không đồng ý với tác giả và muốn
phản biện, bạn cứ dùng tài liệu tham khảo trong sách làm chuẩn, bảo đảm phần phản
biện của bạn cũng sẽ chặt chẽ, đầy đủ, không lo thiếu sót.
Tôi
cũng đồng thuận với ý kiến của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi: “Những bài tiểu luận
ngắn gọn và súc tích cho người đọc vừa thú vị và vừa như khám phá được điều gì
đó. Giữa hai thể loại phê bình lý luận và sáng tác tiểu thuyết tôi thích ở anh
phần lý luận nó vừa sắc bén và logic.” [4]
Đây
là một bộ sách rất thú vị và rất nên có trong tủ sách gia đình nếu bạn muốn tìm
hiểu ngọn ngành những vấn đề thời sự, xã hội, văn hóa, chính trị... của một thời
đã và đang qua.
Trần
Thị Nguyệt Mai
15.9.2022
______________________________
Ghi
chú và Tham khảo:
[1]
Tác phẩm đã xuất bản của Trần Doãn Nho – Trần Hữu Thục:
- Vết
xước đầu đời, tập truyện ngắn, nxb Thanh Văn, California 1995
- Căn
phòng thao thức, tập truyện ngắn, nxb Thanh Văn, California 1997
- Viết
và Đọc, tiểu luận văn học, nxb Văn Học, California 1999
- Loanh
quanh những nẻo đường, ký và tùy bút, nxb Văn Mới, California 2000; Thư Ấn Quán
tái
bản
năm 2014
- Dặm
trường, truyện dài, nxb Văn Mới 2001, California; tái bản & nhuận sắc, Thư Ấn
Quán 2018
- Tác
giả tác phẩm và sự kiện, biên khảo văn học, nxb Văn Mới, California 2005
- Từ
ảo đến thực, tạp bút, nxb Văn Mới, California 2006
- Ẩn
Dụ, Cuộc Phiêu Lưu Của Chữ, biên khảo, nxb Người Việt, California 2015
- Thơ
Trần Doãn Nho, thơ, Thư Ấn Quán 2018
- Chữ
nghĩa văn chương cuộc đời, tạp bút, nxb Văn Học Press, California 2020
- Đi.
Trong Một Buổi Sáng, tập truyện, Văn Học Press, 2021
- Cõi
chữ cõi người, biên khảo tập I: Văn chương - văn học, nxb Nhân Ảnh, California
2022
- Cõi
chữ cõi người, biên khảo tập II: Chính trị - văn hóa – xã hội – ngôn ngữ, nxb
Nhân Ảnh,
California
2022
[2]
Nguồn: Ngô Thế Vinh – Chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa – Tập 2, Việt
Ecology Press 2022, trang 202, 203.
[3]
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 82, tháng 11/2018, Phạm Cao Hoàng phỏng vấn Nhà văn
Trần Doãn Nho, tr. 90, 91.
[4]
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 82, tháng 11/2018, Nguyễn Trọng Khôi – Trần Doãn
Nho và tôi, tr. 66.
______________________________
Độc giả
có thể mua bộ sách “Cõi Chữ, Cõi Người” trên mạng Amazon theo link dẫn sau đây: