Ở nhiều làng quê hai loại cây gần gũi nhất với con người
là cây tre và cây mít.
Những
hàng tre chạy dài dọc theo đồng ruộng rộc làng, đến mùa lúa chín lũ chim dồng dộc
bay về kết ổ treo toòng teng. Những bụi tre rải rác theo đường xóm, gió đẩy mo
tre bay lông lốc, con chim chìa vôi khoe đôi cánh mướt trên ngọn măng vòi lắc
lay dưới màn mưa bụi xám.
Mít
đứng chung với thơm thành vườn, vừa lấy trái vừa là cây che tàn cho thơm. Mít
trồng chung quanh nhà, trồng trong sân. Gỗ mít màu vàng tươi thường dùng chạm
khắc tượng Phật. Buổi chiều quét lá mít khô dồn nơi góc rào đốt rác, khói bay
lên trắng đặc.
Trong
sách Tập đọc cấp I hồi năm 1950-1952
có bài Vè con nít của Nguyễn Đình: Con nít con nít. Thân hình nhỏ xít. Đội mũ
lá mít. Cỡi ngựa tàu cau. Đứa trước đứa sau. Đua nhau một lũ.
Trẻ
con hái lá mít làm trâu bò chăn nuôi, làm tiền bạc mua bán và chằm những chiếc
mũ đội đầu xinh xinh.
Mũ lá mít thường chằm bằng gai thồ lồ, một loại gai cứng,
dài khoảng 5 phân, nhọn bén. Đồng dao nói về thằng Lía có những câu như:
Thằng
Lía là thằng Lía hoang
Nào ai
dám chứa hổ mang trong nhà…
. . .
Thằng
Lía là thằng Lía cồ
Bẻ gai
thồ lồ chích đít thằng Lía.
Tương truyền Lía là chủ soái lục lâm thảo khấu từng làm quan
quân khiếp đảm, dám bắt cả người thiếp yêu của Tổng đốc về sơn trại làm vợ, thế
mà phải sợ gai thồ lồ chích đít, như vậy đủ biết giá trị loại gai này.
Đội mũ lá mít, cỡi ngựa tàu cau. Nhiều khi trẻ con dùng
chà tre làm ngựa vì chà tre còn dễ tìm hơn tàu cau. Chẳng cần phải trau chuốt
thêm thắt gì cho mất công, lấy một chà tre (cành tre) bứt sợi dây bìm bìm ở
hàng rào cột làm dây cương, ta đã có con ngựa. Cho con ngựa vào giữa hai chân
người, đó là cỡi ngựa. Một tay cầm dây cương, một tay cầm roi, ta cho ngựa phi
qua gò cỏ. Thật ra là ta phi, nhưng đôi chân ta đã hoá thân vào chân ngựa. Ba bốn
bạn đua nhau, ai chạy giỏi là con ngựa ấy thắng cuộc. Trên đường đua có thể
chung quanh ta là hoa sim hoa mua nở tím, hoa găng nở vàng, hoa trang rừng nở đỏ. Nắng hồng và gió mát làm ta ngây ngất say
sưa. Tiếng chim bồ chao rộn ràng như tiếng nhạc thúc quân hòa theo nhịp chân ngựa.
Ngựa ta là loại ngựa chạy chân reo, nước lớn nước nhỏ đều hay vô cùng.
Đọc Đường thi thấy trẻ con bên Tàu hồi xưa cũng cỡi ngựa
chà tre. Thi hào Lý Bạch tả trong Trường
Can hành:
Thiếp
phát sơ phú ngạch
Chiết
hoa môn tiền kịch
Lang kị
trúc mã lai
Nhiễu
sàng động thanh mai.
Nhớ lại ngày còn nhỏ…tóc thiếp vừa mới rủ xuống trán. Thếp
bẻ hoa chơi trước cổng. Chàng cỡi con ngựa tre chạy lại, vòng quanh giường nghịch
cành mai xanh… A! Té ra chàng thiếu niên này cỡi ngựa chà tre để đến với một
nàng thiếu nữ cùng xóm, cả hai đều còn ngây thơ và sau đó không lâu, mười bốn
tuổi nàng đã về làm vợ chàng, mặt thẹn thùng chưa từng hé mở.
Đồng cư
Trường Can lý
Lưỡng
tiểu vô hiềm sai
Thập tứ
vi quân phụ
Tu nhan
vị thường khai.
Thế thì trẻ con những ngôi làng miền quê của nước Việt Nam
bé nhỏ đâu có khác gì trẻ con của nước Trung Hoa rộng lớn mênh mông với những
thời Xuân thu chiến quốc lẫy lừng thanh sử, với những bài Đường thi tuyệt tác rực
rỡ sáng ngời đầy kho tàng văn học.
Cũng đội mũ lá mít, cỡi ngựa chà tre.