Tháng 10/1991, Hợp Lưu ra đời. Tôi đã có mặt ở Mỹ vài năm,
còn thuộc diện dân mới nhập cư. Cảm thấy không kham nổi việc làm nặng nhọc với vóc
dáng “mình hạc xương mai”, nên dù đã xa tuổi thiếu nữ, tôi vẫn cố công đèn sách
tạo dựng tương lai. Xứ sở mới, ngôn ngữ không là tiếng mẹ, đầu óc tiêu thụ chậm,
nên trong khi người khác chỉ cần học một giờ thì tôi phải ngốn gấp ba bốn lần nhiều
hơn. Cộng thêm gia đình, con nhỏ... chẳng còn thời gian nào để nghĩ đến chuyện văn
chương. Thành phố tôi ở có ít người Việt, sách báo tiếng Việt cũng không. Mà nếu
như có, chắc tôi cũng đành phải giả đò ngó lơ “cầm bằng như không biết mà thôi”...
Tôi bắt đầu nghe tên anh khi đọc bài viết “Khánh Trường,
Sức Mạnh Của Im Lặng” của họa sĩ Đinh Cường vào tháng 1/2012 nhân dịp anh bày 30
bức tranh Thiền. Lúc đó, tôi chỉ biết anh là một họa sĩ như anh Đinh Cường đã nhận
xét, “Tôi thật sự cảm phục bạn ở Sức Mạnh Của Im Lặng
và tìm chốn nương tựa cho tâm hồn mình: Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Như Nietzsche với
hình ảnh Zarathustra đã gợi lên lộ trình sâu rộng của một bậc Đại Bồ Tát giữa
lòng đen tối của thế gian. Khánh Trường là hình ảnh của Zarathustra “Trong tất
cả những tác phẩm, ta chỉ yêu những tác phẩm nào đươc tác giả viết bằng máu của
chính mình. Ngươi hãy viết bằng máu rồi ngươi sẽ biết được rằng máu
chính là tinh thần.” Zarathustra đã nói như thế Khánh Trường đã vẽ như thế.” [1]
Cách đây vài năm trước thời đại dịch Covid-19, trong lần ghé
phố Bolsa, tôi nhờ anh Thân Trọng Mẫn đưa đến thăm anh chị Nguyễn Đình Thuần. Bữa
đó anh Mẫn nói với tôi, đại ý: “Anh sẽ đưa Nguyệt Mai đến nhà anh Nguyễn Đình Thuần.
Nhưng tới Bolsa mà không đến thăm anh Khánh Trường là một thiếu sót lớn. Anh ấy
đang bị bệnh nặng, không biết lần tới Nguyệt Mai đến Bolsa thì còn có dịp để gặp
không?” Thế là anh Mẫn chở tôi đến nhà họa sĩ Khánh Trường trước, dù tôi chưa hề
quen anh. Chỉ nghe nói họa sĩ Khánh Trường layout và làm bìa sách rất đẹp. Lúc đó
anh đang bệnh nhiều, phải nằm trên giường. Đương nhiên, khi cả hai người không quen
hay biết gì về nhau thì câu chuyện không thể tránh khỏi sự tẻ nhạt. Tôi chỉ hỏi
thăm anh đôi câu về sức khỏe, còn lại anh Mẫn và anh nói chuyện với nhau là chính.
Quả tình tôi không hề biết mình đang được hạnh ngộ người sáng lập tờ Hợp Lưu một
thời đình đám.
Đến khi giúp tạp chí Ngôn Ngữ đọc bản thảo số 2 (tháng 7/2019),
xem tùy bút “Tha hồ mây trắng bay” của anh Khánh Trường, tôi thật sự thương cảm
cho hoàn cảnh của một cậu bé sinh ra trong gia đình khó khăn không may rơi vào số
phận nghiệt ngã. “Quá khứ tôi? Chẳng những chả có gì đáng tự hào, trái lại luôn
làm lòng tôi quặn thắt.” [2]. Cậu bé 13 tuổi đã phải rời nhà ra đi khi “Cha
tù tội oan khiên. Mất đi nguồn lao động chính. Bữa cơm hàng ngày dù chỉ mắm rau
nhưng vẫn bữa đói bữa no. Bà mẹ kế không nghề nghiệp. Tôi và hai đứa em trai
còn quá nhỏ... Một ngày một đêm trên con tàu cũ kỹ đến vùng cao, Đà Lạt, đẫm ướt
sương mù và lạnh cóng. Đói, khát, lo sợ. Thằng nhỏ bước xuống sân ga, tay ôm một
bọc ni-lông tái chế xỉn bẩn, bên trong đựng bộ quần áo cũ, hai may-ô, hai quần
lót và một gói xôi, ba củ khoai lang mua từ ga Phan Rang. Trong túi chỉ còn
đúng 20 đồng nhàu nhĩ.” [2]. Đi về hướng hồ Xuân Hương, trời lạnh cóng.
Nhìn thấy tiệm thuốc tây, cậu bé bước vào định tránh gió, bớt lạnh thì ông chủ tiệm
hỏi mày muốn mua gì? Cảm nhận mối nghi ngờ nơi người chủ, nó sợ hãi ấp úng, đáp
Optalidon “vì có lần đọc báo biết một thiếu nữ bị tình phụ, cô ta tuyệt vọng,
quyên sinh bằng cách uống trọn tuýp Optalidon”[2]! Rời tiệm với ống thuốc
và hai đồng tiền thối, nó tiếp tục đi vô định đến một trạm taxi, có cây xăng lớn,
tìm góc tối cuối nhà rửa xe và thiếp đi một lát. Khi tỉnh dậy, thấy bọn nhỏ trạc
tuổi lăng xăng xách nước, lau rửa những chiếc taxi trong bến và được tài xế cho
tiền, nó nghĩ sẽ sống được bằng nghề này nên cũng bắt chước làm theo. Chẳng ngờ
chưa kịp làm gì thì đã lãnh ngay một cú đá trí mạng, ngã ngửa của tên đàn anh vùng
đó. Rồi cậu bé bị bán đi cho “chị Hai” của một động điếm. “Buổi tối, sau một
ngày mỏi rã chân ngoài đầu hẻm, léo nhéo mời chào các đấng chiến sĩ rằn ri
ngang qua, “Đại ca ơi, đi một phát lấy hên đại ca. Hàng mới ở tỉnh lên, mướt rượt,
đông ngò (nhiều lông), nước nôi đầy đủ. Hết sẩy đại ca ơi…” Khuya, tôi trở vào,
ăn qua quít bát cơm với vài chị đượi, rồi vào ngủ ở một trong bốn phòng, nếu vắng
‘khách’”[2]. “Một tối, đang thiu thiu nửa tỉnh nửa mê, tôi nghe có
tiếng đôi co bên kia “vách”, “Ra đi cha nội... Uống chi lắm rứa? Dai như đỉa, bộ
tui sức trâu à?”. Tiếng cười hềnh hệch: “Càng lâu càng sướng em ơi... Lẽ ra em
phải thối tiền lại cho anh... Không cảm ơn còn bày đặt than thở...”. “Tui chịu
hết nổi rồi.” Tiếp theo, tiếng động mạnh, có lẽ một thân thể bị đẩy rơi xuống mặt
sàn gác. Tôi giật mình tỉnh ngủ. “Tui không đi nữa, để tui xuống nói Má Hai tìm
cho anh con khác. Tiếng đàn ông lớn giọng: “Đụ mẹ mày ngon. Tao đập chết mẹ mày
bây giờ!” “Thách đó, đập đi!” và tiếng xô xát. Tôi tốc tấm “vách” chạy sang.
Tên lính đang nắm tóc chị T. kéo rịt xuống. Chị T. không vừa, một tay bóp chặt
hạ bộ tên lính, một tay quơ quào rối rít, cố gỡ nắm tóc dài đang bị tên lính
làm chủ. Cả hai đều trần truồng. Chị T. mới đến làm ở “động” non hai tháng, người
nhỏ nhắn, không đẹp nhưng tính tình vui vẻ hào phóng. Chị rất thương tôi. Những
hôm ế khách chị và đồng nghiệp đợi gánh hột vịt lộn ngang qua, gọi vào, chén.
Tôi được hưởng ké, chị T. luôn luôn bao giàn. Khi thấy chị T. bị tên lính hành
hung, tôi lập tức nhảy vào bênh. Tôi phóng người bám trên lưng tên lính, hai
tay đấm thùm thụp vào đầu hắn. “A, thằng oắt con, muốn chết hử?” Tên lính thả
chị T. ra, vòng tay thộp cổ tôi, đẩy mạnh vào vách ván. Tôi nhỏ con, ốm yếu, chả
hơn gì con nhái bén trong bàn tay hộ pháp của tên lính. Chị T. được tự do, vội
nhào xuống sàn, lật gối lấy con dao giấu bên dưới, chĩa về phía tên lính, hét:
“Thả thằng nhỏ xuống. Tên lính cười hăng hắc, không quay lui, thay vì buông tôi
ra, hắn lại đẩy lên cao. Tôi nghẹt thở, tay chân giãy giụa điên cuồng. Chị T.
nhào tới. Và thật bất ngờ, ngoài dự đoán của tôi, của cả tên lính, chị T. vung
tay, đâm ngọt lưỡi dao vào sườn tên lính. Hắn giật bắn người, buông tay, tôi
rơi xuống sàn, hắn cũng loạng choạng quỵ ngã, hai tay ôm bụng. Khi Má Hai hay
tin, sai người gọi cảnh sát đến thì tên lính cũng vừa thở hắt, giã biệt trần
gian. Chị T. bị bắt, bị tù. Ngày tôi được vào thăm, chị vuốt tóc tôi, cười buồn:
“Thế này biết đâu lại hay, ra tù, chị sẽ về quê...” Chị khuyên tôi, “Đời em còn
dài, không nên chôn vùi ở đó...” và chị nhắn Má Hai trao tôi một phần số tiền
chị đã dành dụm được trước đây, hiện Má Hai đang giữ hộ. Nhờ số tiền, tôi mua
vé xe đò xuống Qui Nhơn, ở đó, tôi sống chung với một thằng bạn cùng tuổi trong
một toa tàu bỏ hoang cuối sân ga.”[3]. Giữa lúc tuyệt vọng, đói lả, cậu bé gặp một ân nhân, là thầy giáo, nuôi cậu
trong những ngày đầu và dạy nghề vẽ cho cậu. Từ đó, cậu bé sống bằng nghề ký họa
chân dung cho lính viễn chinh và gái điếm ở những snack bar còn người bạn
thì đi đánh giày. “Trời vừa sụp tối, tôi cùng thằng bạn cắp sách vở đến các lớp
học bổ túc. Trầy trật mấy năm, thằng bạn đỗ được cái tú tài bán. Hắn đăng lính,
lon chuẩn úy, đóng đồn trên Pleiku. Ở đơn vị mới chưa được bao lâu, một đêm đồn
bị tấn công, hắn chết. Tôi mất một thằng bạn quý. Người đã từng chia ngọt xẻ
bùi với tôi suốt thời niên thiếu, người đã từng đưa lưng hứng chịu một con dao
chặt nước đá lởm chởm răng cưa để cản đường cho tôi thoát thân, khi cả hai bị một
băng nhóm khác thanh toán vì đã xâm phạm địa bàn hoạt động” [3].
Nên từ đó, tôi vào các trang mạng tìm hiểu thêm những thông
tin về họa sĩ Khánh Trường. Đây là lý lịch trích ngang do anh tự ghi:
“... sinh ra, lớn lên, đi học, đi giang hồ, đi làm... du đãng. 1968: đi lính, 1970: bị thương. 1972: giải ngũ. 1987: vượt biển đến Thái Lan. 1988: định cư ở Nam California, Mỹ. Nghề chính: không có. Nghề phụ: thập cẩm. Một cuộc đời trôi nổi hư hỏng và tầm thường, nhợt nhạt đến chính chủ nhân cũng phải thở dài!” (chung cuộc, trang 170) [5]
Anh thổ lộ với Lê Quỳnh Mai, “ngày xưa đi lính, tôi bị sáu mảnh đạn ghim trong đầu,
chấn thương sọ não, mắt vì thế bị lưỡng thị (nhìn một thành hai). Mấy mươi năm
sau giải ngũ, thị giác dần hồi phục, nhưng vì tai biến, cơ thể suy nhược, bệnh
cũ tái phát. Nay, tôi vẽ, phối màu, phần lớn dựa vào kinh nghiệm, để gia giảm sắc
độ hơn là bằng mắt nhìn.” [3]
Và chia sẻ với Đỗ Lê Anh Đào, “giai đoạn sáng tác đáng nhớ nhất là ngày tôi đã tập
cầm cọ lại được sau bạo bệnh. Đáng nhớ, vì chưa bao giờ trong
đời tôi cực nhọc như thế nhưng vui như thế khi vẽ hoặc viết. Cô
cũng biết tôi bị stroke 3 lần, đưa đến hậu quả tay chân chỉ sử dụng
được khoảng 30%. Chân đi đứng nghiêng ngả, phải ngồi xe lăn; tay vụng về, cầm nắm
vật dụng nếu thiếu chú tâm, sẽ rơi, đổ; tệ hơn, không viết được, chỉ có thể gõ
chữ trên phím computer bằng một ngón duy nhất của bàn tay phải, chữ được chữ mất
vì không làm chủ được tứ chi. Giọng nói ngọng nghịu, phát âm khó khăn. Mắt lưỡng
thị, chỉ nhìn và nhận biết mọi sự vật qua một… màn sương, và chỉ đọc được chữ
trên màn hình computer với điều kiện phải phóng lớn chữ thành tối thiểu size
14. Chưa hết, hơn một năm trước tôi lại bị thêm bệnh ung thư thanh quản và loét bao tử. Sức khỏe đã sa sút càng tệ hại trầm trọng, có thể “lên tàu” bất cứ
lúc nào. [4]
Trần Vũ đã vẽ lại chân dung họa sĩ Khánh Trường lần đầu gặp
mặt:
“Khánh Trường với Khánh (một nhân vật trong “Có Yêu Em Không” của KT) là một.
Một con người và một nhân vật với tất cả liều lĩnh khinh mạn, nửa hảo hớn, vừa
du đãng, chất ngất đam mê nhưng cũng bất cần đời và đôi lúc biết mất dạy... Những ngày sau tôi khám phá anh là type
Django như tôi ưa thích. Tôi cũng thích có một người anh chịu chơi như vậy, đầy
thói hư tật xấu nhưng biết hiên ngang bao che cho đứa em khi cần thiết.” [6]
Nhưng hơn hết thảy, phải nói đến tấm lòng của anh đối với
văn chương, muốn phá bỏ quá khứ nặng nề, định kiến hẹp hòi một chiều,
tạo một diễn đàn, sân chơi chung để anh em cầm bút hải ngoại
và quốc nội cùng tham gia. Anh đã làm hết sức có thể như vẽ bìa, layout sách, thậm chí viết...
dâm thư với mục đích duy nhất là có tiền trả chi phí giúp tờ báo sống còn, và chịu
đựng tất cả những lời hằn học, bỉ thử của không ít người chống đối. Là “cha đẻ”
của Hợp Lưu, với niềm tin đó là “diễn đàn đầu tiên khởi xướng
giao lưu hai dòng văn học Việt Nam Bắc Nam do hoàn cảnh trớ trêu và bi thảm của
một giai đoạn lịch sử, đã phân rẽ thành hai nhánh. Hai thập kỷ, 1954-1975, nếu
lấy chiều dài của dòng chảy một dân tộc, quả thực chả nghĩa lý gì. Nhưng chúng
ta, những người làm văn học nghệ thuật đã sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong
giai đoạn này, không thể phủ nhận đã khắc đậm vào não trạng của chúng ta, hướng
dẫn tư duy của chúng ta, để sản sinh, làm thành hai mảng văn học chảy về hai hướng
khác biệt. Bằng rung cảm nhạy bén của một người yêu tiếng Việt, chúng tôi đã
nhìn thấy điều đó, và mang khát vọng muốn đồng quy hai dòng chảy này. Bởi chưng,
thiển nghĩ, văn học Việt Nam không thể lớn mạnh nếu không hợp lưu. Một thủy đạo
lớn tất nhiên sẽ mạnh hơn hai phụ lưu nhỏ.” [7]
Anh chia sẻ: “Ngày nay đọc lại những số Hợp
Lưu cũ, bạn đọc mới không thể hình dung được vô vàn khó khăn đến từ nhiều mặt,
từ xin bài, đánh máy, layout, chạy tiền in, quảng bá để có độc giả dài hạn, đi đến
các nhà sách trong phạm vi 6, 700 dặm để phát hành và đòi tiền bán… Một mình một
ngựa. Tôi, đến bây giờ thỉnh thoảng nhớ lại, vẫn còn ngạc nhiên sức lực đâu chu
toàn hàng trăm việc như thế. Nhất là phải đối đầu với nhiều chống đối dữ dội, cực
đoan. Hàng đêm điện thoại gọi đến nhà chửi rủa, lăng mạ, thậm chí còn hăm dọa
ném lựu đạn vào nhà “cho tan xác lũ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Báo chí bêu
riếu, bỉ thử, thậm chí một bà chủ báo viết: “Ra đường chẳng may gặp tên KT buộc
phải bắt tay thì hãy mang vào bàn tay 10 áo mưa để tránh bẩn” (vì đến số 3 hết
tiền in, tôi phải viết… dâm thư, bán, để có tiền in báo). Ban ngày vào quán, khách quen giạt qua bàn khác vì sợ “lạc đạn”.
Tình hình 40 năm trước không giống bây giờ tẻo teo. Một tác giả trong nước xuất
hiện trên một tờ báo hải ngoại nếu không là Việt cộng thì đích thị là bọn nằm
vùng hoặc phản bội, trở cờ cần thanh toán!!!” [7]
Quyết tâm thực hiện tờ báo, gắng sức vượt qua những trở ngại
khó khăn, Hợp Lưu đã có những thành công, được nhà văn Trần Vũ ghi lại: “12
năm không biên giới đã cho phép Hợp Lưu đăng tải vô vàn những sáng tác, biên khảo,
phỏng vấn của các tác giả trong nước. Không thể liệt kê hết 16.500 trang của 66 số báo, chỉ có thể nhắc lại
những ấn tượng chính:
Quả
Vườn Ổi (Hoàng Cầm), Dị Mộng, Qua Sông (Cung Tích Biền), Ðàn Sẻ Ri Bay Ngang Rừng
(Võ Thị Xuân Hà), Giấc Ngủ Nơi Trần Thế (Nguyễn Thị Ấm), Ðảo Ngụ Cư (Ðỗ Phước
Tiến), Vũ Ðiệu Của Cái Bô (Nguyễn Quang Thân), Phù Thủy, Hậu Thiên Ðường (Nguyễn
Thị Thu Huệ), Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Một Chuyện Phải Gió (Nguyễn Quang Lập), Gió
Dại, Khắc Dấu Mạn Thuyền (Bảo Ninh), Mùa Hoa Cải Bên Sông, Người Ðàn Bà Xóm Trại
(Nguyễn Quang Thiều), Bảy Trích Ðoạn Mùa Xuân Vùng Da Cam, Phòng Bốn Giường
(Bùi Hoàng Vị), thơ Thanh Thảo, Nguyễn Ðỗ, Hoàng Hưng, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Quyến,
Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Vàng Sao, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Triệu Từ Truyền, Lê Ðạt. Truyện ngắn Nhật Tuấn, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Ngô Thị Kim
Cúc, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Trung Trung Ðỉnh, Lý Lan, Võ Thị Hảo, Trần
Thị Trường, Hòa Vang, Nguyễn Bản, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng, v.v... Biên khảo
lý luận của Nguyễn Kiến Giang, Lại Nguyên Ân, Bùi Thiết, Ðào Thái Tôn, Vương Trí Nhàn, Tiêu Dao Bảo Cự, Lê Ngọc Trà,
Phong Lê, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên, Lê Hoài Nguyên,
v.v... Ở mỗi bộ môn đều có rất nhiều bản thảo gởi ra từ trong nước như trường hợp
Thằng Bắt Quỷ (Cung Tích Biền), Xuân Hồng (Nguyễn Huy Thiệp), Từ Man Nương đến
AK (Phạm Thị Hoài), Không Ðề (Trần Vàng Sao), Chia (Nguyễn Trọng Tạo), Người
Thuận Tay Trái, Chạy Ðạn, Dặm Trường (Trần Thị NgH.), Tự Bạch, Tiểu thuyết Vô Ðề
(Dương Thu Hương), Ngọn Núi Ảo Ảnh, Tuyệt Tình Cốc (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Tầng
Trệt Thiên Ðường, Nghiệp, Dị Mộng, Khu X Nội Quang (Bùi Hoàng Vị), Truyện Của
Chíp, Bụi Nắng (Phan Huyền Thư), Văn Học và Xã Hội VN (Phạm Thị Hoài), Nhìn
Chung Một Bức Tranh Hoàn Chỉnh Về Văn Học Dân Tộc (Phạm Xuân Nguyên), thơ Hoàng
Hưng, Nguyễn Ðỗ, Nguyễn Quốc Chánh, nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Bạt Tụy, tiểu luận
Trần Ðộ, v.v...” [6]
Vì lý do sức khỏe của
chính anh và sự từ nhiệm của chủ biên Trần Vũ cộng thêm những ý kiến không thể thống
nhất được trong nội bộ, anh Khánh Trường đã rút hẳn tên khỏi Hợp Lưu từ tháng 7/2005.
Tháng 10/2022 tới đây là kỷ niệm 31 năm kể từ khi tạp chí
Hợp Lưu ra đời. Tuy anh Khánh Trường không còn làm Hợp Lưu nữa nhưng 12 năm đầu
do đích thân anh chăm sóc tờ báo đã lưu lại trong lòng độc giả những dấu ấn không
phai. Như nhà báo Lê Quỳnh Mai đã trích lời Trần Đạo để ở phần chapeau bài
phỏng vấn của cô: “Tạo ra một diễn đàn trong đó mọi nhà văn Giao Chỉ, bất kể
hình hài ít nhiều dị hợm của nó trong thế kỷ 20, đều có tiếng nói, đâu phải
chuyện chơi. Ông là người làm được điều đó. Nội chuyện đó thôi, ông sẽ lưu danh
trong lịch sử văn học Việt Nam trong thế kỷ”[3]. Và nhà thơ Hoàng Hưng
ghi ở chapeau khi giới thiệu bài viết của Khánh Trường
“Hợp Lưu và hợp... tuyển” trên trang Văn Việt ngày 29-1-2019: “Năm năm trước, một số anh chị em chúng tôi
trong nước, lập ra Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam và báo mạng
vanviet.info, cũng là tiếp nối ý nguyện, ý chí Hợp Lưu của anh!”
Như thế, ước nguyện mà anh Khánh Trường ấp ủ vẫn còn và sẽ
còn được duy trì.
Trần Thị Nguyệt Mai
9/9/2022
Tham khảo:
[1] Đinh
Cường – Khánh Trường, sức mạnh của im lặng
https://www.diendantheky.net/2012/01/khanh-truong-suc-manh-cua-im-lang.html
[2] Khánh
Trường – Tha Hồ Mây Trắng Bay – Ngôn Ngữ số 2, tháng 7/2019.
[3] Lê Quỳnh
Mai – Tác Giả, Với Chúng Ta – Phỏng vấn Họa sĩ Khánh Trường
https://hopluu.net/a2961/tac-gia-voi-chung-ta-hoa-si-nha-van-khanh-truong
[4] Đỗ Lê
Anh Đào – Nói chuyện với Nhà văn / Họa sĩ Khánh Trường
https://damau.org/12002/noi-chuyen-voi-nha-van-hoa-si-khanh-truong
[5] Hà Khánh
Quân – Họa phẩm trong thơ Khánh Trường
https://www.luanhoan.net/theochantho/html/theochantho-khanhtruong.htm
[6] Trần
Vũ - Hợp Lưu 12 năm, trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại
http://phannguyenartist.blogspot.com/2012/12/khanh-truong.html
[7] Khánh
Trường – Khánh Trường, Hợp Lưu và hợp... tuyển