Mùa đông, mưa
và gió, ướt và lạnh, gây nhiều trở ngại cho công việc của bao nhiêu người. Mùa
đông không phải là mùa ít công việc hơn những mùa khác, thành ra người ta phải
làm việc trong cảnh mưa gió dầm dề, dai dẳng. Nhiều người thay vì gọi mùa đông
gọi là mùa mưa. Đúng ra thì mùa mưa ở Miền Trung là cao điểm của mùa đông.
Vào cái thời
văn chương quốc ngữ mới bắt đầu, ở mỗi bài văn, quyển sách các cụ thường nêu
tên hiệu trước tên chính một cách trịnh trọng, như: Ưu Thiên Bùi Kỷ, Đàm Xuyên
Nguyễn Phan Lãng, Nông Sơn Nguyễn Can Mộng, Bưu Văn Phan Kế Bính, Nễ Giang Nguyễn
Thiện Kế, Song An Hoàng Ngọc Phách v.v… Cụ Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến có tùy bút
Mưa dầm vui cho ai? Mưa dầm buồn cho ai. Lúc
chúng tôi đi học phải thuộc lòng những bài văn theo lối biền ngẫu này. Và một
ngày mưa gió thầy đã gọi tôi lên đọc Mưa
dầm… cho cả lớp lắng nghe.
Có hai cảnh mưa
dầm vui và hai cảnh mưa dầm buồn. Cảnh vui của kẻ quyền chức giàu sang. Còn cảnh
buồn, ấy là người đang thi hành công vụ nơi “quan sơn nghìn dặm, ra lầy vó
ngựa, vào ướt bánh xe, gội gió tắm mưa, chân trời góc bể” rồi thì “chạnh lòng tha hương cố quận, đường đi lối
lại ngổn ngang, nghĩ ra ngõ lợi đường danh, gót mỏi chân chồn chán ngán”! Và
cảnh nhà nghèo “ củi đun bị ướt, mớ tắt mớ
đỏ nhập nhèm, con trẻ cằn nhằn, cha già gắt
gỏng”. Tác giả kết luận: “Như thế thì
cảnh mưa dầm càng buồn và càng thê thảm
vậy!”.
Đọc như thế
nhưng chúng tôi không thấy có chút gì là buồn chán thê thảm, trái lại thấy vui
vui vì nhịp đối trong câu văn và tưởng tượng ra cái cảnh đường xa gập ghềnh xe
ngựa dưới mưa, có vẻ người hùng lắm, thật đáng mặt giang hồ lữ khách! Ở thôn
quê hầu hết nhà nghèo nhưng không có cảnh củi đun bị ướt mớ tắt mớ đỏ nhập
nhèm, trái lại bếp dụm bằng củi gộc to như bắp chân người, đỏ rực suốt ngày
đêm. Dầm mưa cho đã rồi chạy về ngồi ấm, đặt hai bàn tay gần sát vào lửa, chà
vuốt lên khuôn mặt lạnh, rồi nướng bắp, lùi khoai, rang hột mít, vừa ăn vừa trò
chuyện rôm rả.
Hàng ngày đi học
chúng tôi mang chiếc áo tơi chằm bằng lá buôn. Gọi là chằm áo tơi, cũng như chằm
nón, chứ không phải may. Và mang áo tơi chứ không phải mặc. Chiếc áo tơi lá thô
kệch, mang vào, đầu đội nón, trông như con kên kên, nhưng bảo đảm không hề bị ướt,
và thật ấm. Mưa tạt phía nào che phía ấy. Mưa xối xào xào trên nón, trên tơi
nghe càng vui tai. Cứ như thế ùa nhau thi nhau chạy trên những đoạn đường đất
thịt nhờ nước mưa giội rửa dẽ chắc, sạch bong. Qua mấy trảng gò cỏ tươi xanh mượt,
có những vũng nước đọng bằng cái nong, cái nia, sâu đến dưới đầu gối, cả bọn
túm hai mí áo tơi lại, băng ào qua, nước tung tóe hai bên. Đứa này reo: ra lầy vó ngựa, đứa kia tiếp: vào ướt
bánh xe, đứa khác: gội gió tắm mưa,
đứa khác nữa: chân trời góc bể, bây
giờ thành đồng thanh: chạnh lòng tha
hương cố quận – đường đi lối lại ngổn
ngang – nghĩ ra ngõ lợi đường danh - gót mỏi chân chồn chán ngán… Cứ như thế
vừa reo hò, vừa rượt đuổi, vừa té nước… Thích thú vô cùng!
Áo tơi lá còn đắc
dụng với những người đi cày, đi bừa, đi cấy, chụp nôm, đứng nhá, bơi sõng, chăn
trâu bò… Khi cần, ta ngồi xuống, úp nón bên trên, áo tơi lá che chở ta như một
pháo đài nhỏ. Thu mình trong đó, người lớn thì rít một hơi thuốc lá đậm đặc sảng
khoái. Trẻ con thì trái chuối chín, khúc sắn luộc, nhẩn nha hương vị ngọt bùi.
Câu đố dân gian
có nhiều câu rất mượt mà, rất trữ tình nói về áo tơi. Các nhà thơ tầng lớp trên
thì ít nhắc đến nó, có lẽ do không gần gũi. Khi thất cơ lỡ vận họ chỉ nói tới
“tả tơi áo cầu”. Ra công tìm tòi thì tuy ít nhưng vẫn có văn chương nói về áo
tơi. Như trong bài liên ngâm Hồ Tây tức cảnh
của bà chúa Liễu và các ông Phùng, Lý, Ngô:
Mơn
mơn tay lái con chèo quế
Xàn
xạt mình đeo chiếc áo tơi
Và cụ Đồ Chiểu
khi bàn về thế thái nhân tình:
Mấy
ai ở đặng hảo tâm
Nắng
đun chót nón, mưa dầm tả tơi
Bây giờ những
chiếc áo tơi lá không còn nữa. Có đủ loại áo mưa đẹp: kiểu pa-đờ-xuy, kiểu cánh
dơi, kiểu cả bộ áo quần…đủ màu sắc, trơn, hoa… Thêm kiểu tiện lợi, mỏng dính, xếp
gọn lại đút túi, giá rất rẻ. Chiếc áo tơi lá xấu xí, cồng kềnh, bất tiện, bị
triệt tiêu là phải. Trường hợp của nó khác với chiếc nón lá, tuy phải nhường địa
vị cho các loại mũ, nón lá còn đứng được với thời trang cổ truyền và dịch vụ du
lịch.
Dẫu sao, nếu có
linh hồn, chiếc áo tơi lá sẽ không buồn. Nói một cách văn chương, nó đã làm
tròn sứ mạng trong một giai đoạn lịch sử khá dài của dân tộc. Rồi đây có lẽ nó
chỉ còn lưu đọng trong ký ức những người lớn tuổi trong vài mươi năm nữa. Họ
không khỏi chạnh nhớ đến nó vào những ngày mùa đông mưa dầm triền miên rả rích,
ngồi nhìn ra sân thấy mình bất lực, với chút sức tàn không thể nào chạy nhảy nô
đùa như hồi niên thiếu. *
* *
TRẦN HUIỀN ÂN