Thời giờ
thấm thoát thoi đưa
Nó đi đi
mãi có chờ đợi ai...
Ôi thời
gian! Thế là hôm nay Thư Quán Bản Thảo (TQBT) đã ở ngất ngưởng con số 100. Con số
của một đời người. Tôi thỉnh thoảng vẫn hay ngâm nga câu thơ đầu của Kiều: “Trăm
năm trong cõi người ta”... để nghe lòng ngậm ngùi quá đỗi:
Trăm năm còn lại những gì
Còn chăng những nỗi sầu bi đắng lòng... (TTNM)
Nghe như tiếng thở than của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều trong
Cung Oán Ngâm Khúc:
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì...
Ơ hay, TQBT đang vui mừng đạt tới số 100, cớ sao nói chi những
chuyện buồn phiền như thế? Xin nói ngay, tôi bị dính “Cô” khi đi nghỉ hè ở miền
Nam California. “Đắng” này là từ hậu quả của thuốc Paxlovid. Một lúc sau khi uống
3 viên đầu tiên, tôi đã text cho Bác sĩ Ngô Thế Vinh: “Thuốc bắt đầu ngấm.
Miệng em đắng nghét”. Ông Thầy an ủi học trò: “Thuốc đắng dã tật. Bộ thuốc trị bệnh
mà NM đòi ngon như ô mai sao?” Ước gì mọi thứ trên đời đều ngon như ô mai thì dễ
chịu biết bao! Tôi bị “Cô” chiếu cố tận tình hết sức! Đã hơn 10 ngày mà kết quả
vẫn còn dương tính. Phải tiếp tục cách ly với hết thảy mọi người, lúc nào ra ngoài
cũng phải mang mặt nạ thật khó thở, dù trước đây khi tự nguyện nên cảm thấy rất
thoải mái, còn bây giờ thì bắt buộc nên bỗng thấy... khó chịu! Hôm qua, thứ hai
đầu tuần, boss gọi điện thoại hỏi có thể đến sở sau giờ làm việc để làm một
số việc “không thể chờ được” không, tôi OK liền. Làm cái test nhanh, chụp
hình text cho boss xem: “Kết quả không chắc chắn. Vẫn còn một đường
chỉ mảnh màu hồng ở phần mẫu thử (sample)”. Một lúc sau boss viết lại: “Đã
hỏi Bác sĩ W. “Cô” đang đi ra khỏi thân bạn vì đường hồng rất nhạt. Nhưng bạn vẫn
phải tiếp tục cách ly 5 ngày. Và sau đó vẫn phải đeo mask thêm 5 ngày nữa...” Tôi
xem đây như một “tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, đã sắp thoát khỏi “Cô”, nên đến sở
với tâm hồn phơi phới, đeo mask và đóng cửa phòng lại trong khi làm việc, chẳng
khuấy động đến ai. Với niềm vui đó, hôm nay tôi ngồi viết những dòng chia sẻ này.
Nhân duyên nào để tôi có thể trở lại với văn chương Việt khi
ngỡ đã không còn một cơ hội? Thời thiếu nữ của tôi đã mất cùng với năm tháng đó
như bao người con gái ở phía Nam cùng trang lứa. Để thấy được mọi bất công nghiệt
ngã trên phần đất đã nuôi dạy mình tính nhân bản từ lúc mới đến trường: “Tiên học
lễ, hậu học văn”. Những cuộc hủy diệt phần thư, đày đọa những sĩ quan và viên chức
chế độ VNCH vào tù cải tạo, chính sách kinh tế mới, đối đãi hồng hơn chuyên, trái
tai gai mắt... Đường đã dồn đến cùng, nên người bỏ nước ra đi là điều không thể
tránh khỏi. Đến một xứ sở mới khi đã không còn trẻ, bắt đầu lập nghiệp từ hai bàn
tay trắng, lại ở một nơi xa xôi hẻo lánh không có cộng đồng người Việt, nên tôi
hầu như đã quên chữ nghĩa Việt dù vẫn được nói tiếng Việt trong gia đình. Lúc ấy
máy tính, internet và các trang mạng văn chương chưa được phổ thông như bây giờ.
Báo chí Việt lại càng không có cơ hội đến nơi xa xôi hẻo lánh, rất ít người Việt
chỗ tôi sinh sống. Lo học hành, kiếm tiền cộng thêm bổn phận gia đình đã cuốn hút
tất cả thời gian của tôi... Cho đến mãi về sau này, nhờ vào các phương tiện máy tính, mạng lưới internet
và các trang mạng bắt đầu phát triển rộng, tôi liên lạc lại được với chị Cam Li
Nguyễn Thị Mỹ Thanh, một cây bút rất quen thuộc của Tuổi Hoa, một bạn văn thân thương
thuở ấy mà chúng tôi xem nhau như chị em một nhà. Một bài tùy bút trên Tuổi Hoa
ngày đó của chị Cam
Li được anh Trần Hoài Thư chọn đưa vào cuốn Văn Miền Nam nên trong một dịp trò chuyện,
chị giới thiệu công trình sưu tập văn chương miền Nam của anh chị Trần Hoài Thư
để từ đó tôi viết thư cho anh đặt mua bộ Văn Miền Nam. Ngoài sách đặt, anh còn gửi
tặng tạp chí Thư Quán Bản Thảo và tập thơ Ô Cửa thật dày của anh. Thơ anh rất hay
nhưng đó đây có những lỗi chính tả. Tôi bèn lấy giấy vừa thưởng thức thơ vừa ghi
ra những lỗi ấy, gửi lại để anh sửa cho những lần in sau. Chẳng ngờ chuyện nhỏ nhoi
đó lại trở thành “định mệnh” giúp tôi trở lại với văn chương Việt và được quen với
những người Anh, người Chị, người Thầy, người Bạn văn chương hết sức tuyệt vời...
Tôi
bắt đầu giúp anh Trần Hoài Thư đọc bản thảo từ TQBT số 46 (tháng
4-2011) chủ đề Tưởng nhớ Nhà văn Doãn Dân cho đến số
60 chủ đề Tạp chí Sáng Tạo (tháng 7-2014). (Những số sau này tôi chỉ được đọc khi nào anh nhờ giúp). Buổi
đầu có rất nhiều lúng túng và bỡ ngỡ. Rời quê hương và không còn đọc viết tiếng
Việt đã trên 20 năm, cách chi nhớ nổi hết! Chữ đầu nào nên dùng d hoặc gi, và chữ
cuối nào nên là t hoặc c, những dấu hỏi và ngã “bất quy tắc”? Ôi chao, điên cái
đầu! Thời gian đó tôi cứ email liên tục hỏi chị Cam Li vì lúc xưa đã có thời gian
chị làm “cô cò” cho báo Tuổi Hoa. Có “quới nhơn” giúp đỡ và tôi cũng cố gắng học
hỏi nên dần rồi việc cũng quen. Sau này lại có những links tự điển để dễ dàng tra
cứu nên lần hồi việc này cũng trở thành đơn giản. Cũng có khi bị bí, không hiểu, thì tôi hỏi anh THT
những thắc mắc. Như lúc làm TQBT
số 49 chủ đề Nhà thơ Lâm Vị
Thủy (tháng 12-2011) trong bài thơ “Cho một người xem” trang 224, có chữ “xếp tanh”:
Có phải cuộc đời như
ga xép
Chúng mình những chuyến
tàu quen thuộc
Đôi mắt người xếp tanh
giờ ngó tìm qua vuông kính mở
Những dòng sông,
Những cánh rừng cao su
chưa lấy mủ
(Cho một người xem –
Lâm Vị Thủy)
Thì được anh giải thích:
Xếp tanh (từ gốc tiếng Pháp “chef de train”) là nhân viên hỏa xa phụ trách
tổng quát trên xe lửa. Nên tôi đã để ghi chú này dưới bài thơ để mọi người cùng
hiểu.
Tờ báo đầu tiên trong buổi “xuất quân” của tôi
có nhiều kỷ niệm. Đầu tiên là hiểu được nỗi vất vả của anh chị Trần Hoài Thư – Nguyễn
Ngọc Yến khi đi sưu tập tài liệu: “... 4 giờ sáng mồng 7 Tết Tân Mão, bắt đầu
rời nhà. Rời nhà khi trời còn đen tối, khi tuyết bão, khi trời sương mù dày dặc.
Khi chúng tôi đến Scranton, cách thư viện Cornell khoảng 50 dặm, vào lúc 8 giờ sáng
thì đường đông đá. Chiếc xe đầu chạy chậm lại khiến tôi, quen như một phản xạ, cũng
đạp thắng và đạp rất nhẹ. Vậy mà xe đã mất điều khiển trợt tự do. Hết trái, rồi
qua phải, không thể kiềm chế nó nổi. Trong khi đó phía đường ngược chiều nằm
phía bên trái, một chiếc xe truck chạy ngược lại. Tôi chỉ còn biết nhắm mắt...”
(Rong bút – Trần Hoài Thư – tr. 5). Rồi thật tình cờ, trong bài “Những lần ra mắt
sách” của anh Nguyên Minh, ở trang 33, nhìn tấm ảnh chụp nhóm Ý Thức trong đó có
vợ chồng anh chị Hồ Thanh Ngạn – Nguyễn Thị Dung của Thanh Yên và Thanh Lam – hai
cô bạn ngày cũ – tôi như gặp lại người quen. Thêm một điều lạ nữa là khi dò “Bàn
Tay Cho Yến”, truyện ngắn của Doãn Dân, bỗng thấy một đoạn bị thiếu. Tôi copy đoạn
đó vào email định nhờ anh Trần Hoài Thư tra cứu giùm bản gốc để thêm vào, thì thật
mầu nhiệm, chữ nghĩa hiện ra rõ ràng!
Một chuyện tình cờ nữa là khi làm số 49 (tháng 12-2011) ở
phần bài vở cho chủ đề Giáng sinh, anh THT có hỏi ý tôi là nên cho đi một truyện
ngắn của anh viết trước 1975 về người lính trong ngày Giáng sinh hay nên đi một
truyện sau 1975 về người tù cải tạo? Tôi đề nghị đi bài trước 1975 để độc giả thấy
được những hy sinh của người lính ngoài mặt trận chịu mưa rét giá lạnh hành quân
giữ cho hậu phương được yên ổn vui chơi trong ngày lễ cuối năm. Anh đã đồng ý và
cho đi bài “Nay Lát”. Đến khi bạn Quang Võ giúp sưu tầm và đánh máy lại tập truyện
ngắn “Những vì sao vĩnh biệt” do Ý Thức xuất bản năm 1971 của anh, mặc dù cuốn sách
được sưu tập nguyên vẹn không thiếu trang nào, nhưng truyện “Nay Lát” trong sách
lại bị thiếu một đoạn (và truyện “Như Ân Thánh Sủng” ghi ở mục lục nhưng trong
phần nội dung lại không có). Nên tôi đã dùng truyện này so sánh với đoạn thiếu để
nhờ Quang Võ đưa thêm vào. Anh Thư ơi, đây là chuyện bây giờ mới kể, anh thấy có
điều trùng hợp kỳ lạ không?
Ký ức lại đưa tôi về
khi làm tập TQBT 50 – Chủ đề Nguyễn Đức Sơn (tháng 2-2012) là khi đọc bài anh
Đinh Cường có chỗ không rõ lắm nên tôi viết thư hỏi. Anh đã trả lời rất tường tận
và còn giúp tôi dò bản gốc thơ ở những bài viết khác... Đó cũng là khởi điểm để
tôi được quen thân hơn với anh. Anh là một trong những cộng tác viên rất đắc lực
và một mạnh thường quân của TQBT. Ngoài đóng góp tranh bìa, minh họa và bài vở,
do mối quan hệ bạn bè rộng rãi, thân thiết, anh còn giúp liên lạc với gia đình tác
giả. Như đã giúp liên lạc với chị Kim Nhung, em gái nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm
để in lại tiểu thuyết Cõi Đá Vàng. Hay nhà thơ Trần Xuân Kiêm, phu quân của Nữ sĩ
Phùng Thăng khi thực hiện TQBT số 59 – Tưởng niệm Phùng Thăng (tháng 3-2014). Cũng
số báo này, anh ĐC đã nhờ “cặp đôi hoàn hảo” Phạm thị Anh Nga – Bửu Nam ở Huế tìm
giúp tất cả những hình ảnh tư liệu về Phùng Thăng, mượn thư viện cuốn “Kẻ lạ ở
Thiên Đường” của Simone Weil và scan truyện đó để TQBT có thể giới thiệu với bạn
đọc. Anh rất nhiệt tình giúp những gì anh có khả năng giúp. Tập TQBT 60 – Chủ đề
Tạp chí Sáng Tạo (tháng 7-2014), anh đã thức rất khuya để chụp giúp thơ trên 4 số báo Sáng
Tạo mà trong file Sáng Tạo của anh THT không có. Khi anh THT bắt đầu tập cho tôi
làm bìa TQBT thì chính anh Đinh Cường cũng đã giúp ý kiến, chỉ dẫn. Đối với tôi,
anh lúc nào cũng như một người Anh, một người Thầy mà tôi rất quý kính.
Cũng qua TQBT tôi được quen với anh Nguyễn Phán, nguyên Đại
úy Biệt Động Quân, khóa 24 Võ Bị Đà Lạt, người sĩ quan đã sống sót trở về sau những
ngày đụng trận rất khốc liệt nơi chiến trường An Lộc “An Lộc địa, sử ghi chiến
tích” năm 1972. Anh cũng là một trong bảy thành viên sáng lập Hội HO cứu trợ
TPB & CNQP/ VNCH. Sau khi số TQBT
64 chủ đề “Một nơi nào để nhớ”
phát hành vào tháng 5-2015, tôi nhận được từ anh THT:
Chuyển
em thư mời cộng tác của anh chủ bút tờ Đa Hiệu (Võ Bị Đà Lạt).
Chúc
lành
THT
---
2015-06-26 19:20 GMT-04:00 Thuc Phan <xxxxx@yahoo.com>:
Thưa
anh,
Anh
và chị Yến có khỏe không?
Xin
hỏi anh và nhờ anh. Trong THƯ QUÁN BẢN THẢO số 64 tôi đọc được nhiều bài viết về Sài Gòn mà tôi rất ưng ý của nhiều tác giả mà
trong đó có anh, chẳng hạn như bài SÀI GÒN VÀ TÔI của anh (trang 50) và Một Thoáng Hương Xưa của Trần Thị Nguyệt Mai (trang 141)... Anh có thể bắc giùm một nhịp cầu nối giữa
tôi và tác giả Trần
Thị Nguyệt Mai để tôi mời cô cộng tác với tập san Đa Hiệu. Đây là lần đầu tiên mà
tôi đọc bài viết của nữ tác giả này và bị cuốn hút ngay vào lối viết rất tự
nhiên nhưng hấp dẫn người đọc.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022 vừa qua, anh Nguyễn Phán
đã được Chúa gọi về. Trên trang báo này, em xin được mặc niệm tưởng nhớ đến Anh.
“Thác là thể phách còn là tinh anh”. Anh đã sống một đời rất đẹp, với tổ
quốc, với tha nhân. Nên Anh sẽ mãi còn trong tim của rất nhiều người.
Thế đó, TQBT như một mái nhà kết nối giữa người
đọc và người viết, giữa người viết và người viết. Như trong điện thư ngày thứ sáu
15-4-2016 anh THT chuyển cho tôi:
NM thân:
Nhà thơ Phạm văn Bình vừa để MSG nhờ anh chuyển lời ngợi
khen về bài Lục bát của NM trên TQBT số mới*. Nguyên văn: “Bài thơ dù ngắn gọn nhưng
đọc thật xúc động. Đọc đi đọc lại vẫn hay...”.
Chúc lành về em và gia đình.
THT
[* Ghi chú: Bài thơ “Người Đi” viết nhân 49 ngày của họa
sĩ Đinh Cường đi trên TQBT số 69 (tháng
4-2016) chủ đề Tạp chí Mai.]
Tháng 11-2012, nhân chuyến
về thăm gia đình, anh Trần Hoài Thư đã nhờ tôi liên lạc với nhà văn Dương Nghiễm
Mậu để trình bày ý định làm TQBT số 55 – tháng 1-2013. Anh Đinh Cường giới thiệu
để tôi có thể đến gặp anh Nghiễm. Đây là số TQBT định mệnh. Anh Nghiễm chia sẻ anh
có một bút ký viết về Tết Mậu Thân 1968 đã bị thất tán, nếu được xin anh THT tìm
giúp. Anh Thư đã kiếm thấy ở Thư viện Đại học Yale cuốn “Địa Ngục Có Thật” và chính
chị Yến là người đã khuyến khích anh lên đường lần thứ hai để mượn được cuốn sách
này. Đây là số báo cuối cùng có chị Yến tham gia. Báo đang làm trơn tru, anh chị
dự định sẽ mang tặng bạn bè khi đến dự buổi lễ ra mắt sách của anh Nguyễn Xuân
Thiệp vào ngày 5-1-2013 tổ chức tại Virginia, thì vào một ngày cuối năm 2012, tôi
đột ngột nhận được điện thư của anh: “Chị Yến bị stroke hôm nay. Anh phải lo
cho chị. Nên tạm ngưng một thời gian. Mong em cảm phiền.”... Như vậy cho đến
hôm nay, chị đã nằm bệnh 10 năm rồi. Mười năm địa ngục có thật trên cõi thế. Với
anh. Nhưng anh đã gắng hết sức để tiếp tục con đường đã chọn cùng chu toàn bổn phận
chăm sóc người vợ hiền cho đến trước thời đại dịch Covid-19. Thời gian đầu khi chị
Yến ở nhà thì anh lo toàn bộ. Đến lúc phải đưa chị vào nursing home (tháng
5-2015) vì bệnh trở nặng hơn, một mình anh không thể giúp được, thì mỗi ngày
hai lần anh vào thăm và mang thức ăn Việt do chính anh nấu để chị ăn; song song
đó là những số báo thật công phu, giá trị lần lượt ra đời. Trong đó có những số
với chủ đề thật “gai góc”: Phùng Thăng và hai dịch phẩm “Những Ruồi” & “Kẻ Lạ
ở Thiên Đường”, Nhà văn Hoàng Ngọc Hiển, Nhà thơ Phạm Ngọc Lư, Nhà văn Triều Sơn
và Nuôi Sẹo, học giả Nguyễn Nam Châu... TQBT cũng giới thiệu những tạp chí xuất
bản tại miền Nam trước 1975: Sáng Tạo, Khởi Hành, Trình Bầy, Hiện Đại, Mai, Văn
Học, Văn Hóa Nguyệt San, Tình Thương, Giữ Thơm Quê Mẹ, ...
Nhưng từ khi đại dịch
Covid xảy ra đến nay thì bó tay. Bây giờ mỗi tuần anh chỉ được vào thăm chị một
lần vào ngày thứ sáu để đẩy chiếc xe tình:
Cửa viện mở ra, tôi
đẩy xe tình mang mình ra nắng
Những bụi mai vàng,
càng vàng càng thắm
Dưới nắng vàng, như
thoa phấn điểm trang
(Trần Hoài Thư – Ngủ)
Ở nhà lòng tôi già úa
bao nhiêu
Bên em chiếc xe tình
làm tôi trẻ lại…
(Trần Hoài Thư – Xe Tình)
Mười năm trời không có
chị và những số báo TQBT bất định kỳ vẫn tiếp tục ra mắt bạn đọc với anh THT bao
thầu từ A tới Z: chủ nhiệm kiêm chủ bút kiêm ấn công kiêm thư ký... dù có lúc đã
ngỡ không còn tiếp tục được nữa khi anh bất ngờ bị cơn bão stroke tấn công vào tháng
6-2020. Anh Phạm Văn Nhàn vẫn đồng hành cùng anh nhưng vì ở xa nên chỉ giúp ý kiến,
đóng góp bài vở, hay phát hành báo ở Việt Nam, chứ không thể đảm đương việc in ấn...
Kính thưa hai anh Trần
Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn,
Hôm nay TQBT đã đạt được
con số 100 với 21 năm xuất bản. Một con số nằm ngoài mơ ước kể từ khi chị Yến nằm
một chỗ và hai anh mỗi người với một căn bệnh dành riêng. Với niềm đam mê văn chương
cùng ước muốn khôi phục và giữ gìn Di sản Văn chương Miền Nam (1954-1975) cũng như
trả lại cho những người cầm bút ở miền Nam, nhất là những người Lính VNCH đã ngã
xuống trên các trận tuyến, một vị trí xứng đáng, và bằng tất cả nỗ lực, TQBT và
Thư Ấn Quán đã giới thiệu với độc giả tới nay là 100 số báo và rất nhiều tác phẩm
văn học rất có giá trị, góp phần đập tan những luận điệu tuyên truyền của “bên thắng
cuộc” gán ghép, nào là văn chương thực dân, nọc độc, đồi trụy, phản động, v.v...
Tới nay, trong nước, đã có những luận án tiến sĩ về Văn chương Miền Nam thời chiến
và bộ sách Văn Miền Nam của Thư Ấn Quán đã được dùng làm tài liệu tham khảo. Đó
là một thành công đáng kể. Thời gian trôi và mỗi ngày tuổi trời thêm chồng chất,
em chỉ mong hai anh chân cứng đá mềm, có đủ sức khỏe để đi tiếp những chặng đường
trước mặt.
Trần Thị Nguyệt Mai
19/7/2022 – 31/7/2022