Những tiếng lóc cóc …lóc cóc…đang đều
đều đột nhiên dừng lại. Ngón tay gõ xuống nghe nhẹ hẳn, cần chữ không mổ lên.
Ông ta nói :
- Rồi…rồi…
Là chỉ nói với chính mình , chỉ đủ mình nghe, nhưng nếu
có người nhà bên cạnh thì ai cũng hiểu, hỏi lại :
- Máy đánh chữ lại hư, phải không ?
- Rồi…rồi…
Ông ta
đáp và ngồi thẳng lưng dựa vào thành
ghế, chưa vội xem chữ nào bị gãy . Lâu nay chuyện đó đã thành chuyện thường .
Chiếc máy
đánh chữ từ trước tới giờ vẫn là người bạn thân thiết không thể rời xa của ông
ta. Hồi mới lên tám, sống theo người cha trong cơ quan huyện, mỗi khi có máy
đánh chữ rảnh là ông ta xin các chú, các anh cho đánh chơi. Lúc ấy chỉ có một
máy đánh chữ Việt có dấu, còn toàn là máy đánh chữ Pháp hiệu remington không
dấu, hầu hết đã cũ, có khi chữ này hỏng phải đánh chữ khác tạm thay. Do đó, cho
tới lúc trưởng thành ông ta quen với lối đánh “mổ cò”, tuy cũng nhanh không kém
thiên hạ, trình bày văn bản chẳng thua ai, nhưng thay vì dùng mười hay tám ngón
tay, ông ta chỉ sử dụng có hai ngón trỏ.
Đầu năm
1975, ông ta mua được chiếc máy đánh chữ loại “xịn”, cuộn ruban hai màu đỏ đen,
cũng đáng tự hào với bạn bè. Đến tháng tư, một đồng nghiệp là nhà giáo có tuổi,
Hiệu trưởng Tiểu học tư thục, báo cáo với chính quyền, ông ta phải mang máy đem
nộp. Tiếc như đứt ruột nhưng không dám
giữ. Cá nhân không có quyền sở hữu các loại máy móc. Radio còn phải giấu giếm.
Những năm
sau, trên đường phố thị xã có ba người đánh máy thuê. Họ có xin phép nhưng chưa
được duyệt cấp, nên thỉnh thoảng ông này tố cáo ông kia . Máy chữ của họ bị
Phòng Văn hóa thu giữ tạm thời, rồi trả, rồi thu, năn nỉ, xin xỏ, lại trả. Một
người đánh máy thuê thấy cứ như thế thì phiền hà quá, đem bán rẻ máy và ông ta
mua được. Nỗi mừng còn hơn hồi có chiếc máy đánh chữ xịn rất nhiều. Ngoài việc
đánh những bài thơ, truyện ngắn, thỉnh thoảng ông ta làm giúp tờ đơn, y sao văn
bằng, chứng từ cho bà con quen, nhận được những lời cảm ơn thật tình chân
thành, thêm một niềm vui.
Một hôm,
ông Tổ dân phố nhà ở đầu hẻm tạt vào, thấy ông ta đang đánh máy. Ông Tổ dân phố
già có một thời làm nhân viên chụp ảnh cho Ty Cảnh sát, sợ cũng mang tiếng là
cảnh sát , để gỡ cái tiếng ấy, luôn luôn tích cực trong công tác mong bù đắp lại. Ông Tổ dân phố già ghé hôm
trước thì hôm sau ông Sáu thợ hồ nhà bên cạnh ngoắc ra nói nhỏ :
- Này , anh Tám ơi, tôi nghe ông Mười nói bữa nào vào
“hốt cốt” đó…
- Hốt cốt cái gì ? Ông ta hỏi.
- Máy đánh chữ. Ông Sáu thợ hồ đáp.
Chiếc máy
đánh chữ bị hốt cốt thật. Ông ta không biết có phải do Tổ dân phố không, chẳng
dám hỏi, chẳng dám nói… Hôm họp dân, ông Khu phố trưởng (cấp trên của tổ) cũng
là người có dính dáng đến ngành cảnh sát chế độ cũ, đưa sự việc ra như một lời
cảnh cáo.
Tưởng như
thế là qua, chứng nào tật ấy, ông ta lại mua máy đánh chữ.
Lần này
ông ta hết sức cẩn thận. Để tránh những lời bép xép trẻ con, việc có máy đánh
chữ phải kín đáo với mấy đứa cháu nhỏ trong nhà, không cho chúng biết điều gì.
Khi cần, đợi đến tối, đóng hết cửa lại, khóa cổng… mới đánh máy. Đánh xong cất
vào tủ đứng.
Ông ta
tạm bằng lòng cho tới lúc… một buổi sáng dậy sớm tập thể dục, ông Chín nhà phía
trước nói :
- Hồi hôm
thức khuya, nghe đánh máy lóc cóc cả đêm mà sáng vẫn dậy sớm, anh Tám giỏi
thiệt.
Ông ta
giật mình. Máy đã quá cũ, khô dầu, tiếng kêu trong đêm, nhất là trên căn gác
nhỏ, nghe càng rõ, càng xa, dễ lọt vào tai các toán dân phòng tuần tra. Nguy
thật! Ông ta cố gõ nhẹ, song có cảm tưởng càng gõ nhẹ tiếng máy càng lớn hơn, vang lên dội vào mái
tôn như thách thức, trêu chọc. Chỉ những đêm mưa mới thật yên tâm. Tiếng mưa vỗ
vào mái tôn ào ào ầm ầm lấn át hết mọi
âm thanh…
Thật tội
nghiệp chiếc máy, quá cũ! Không ít lần
những tiếng lóc cóc đang đều đều đột nhiên ngưng lại, ngón tay gõ xuống nhẹ
hẳn, cần chữ không bật lên, một lò xo đã
bị đứt… Phải tạm xếp lại để sáng mai đem sửa .
Bỏ máy
trong cái giỏ lác xách đi, hoặc bao lại đặt sau xe đạp. Nào ai biết được! Mua
ram giấy, hộp carbone , cũng phải kín đáo gói lại, bọc lại, đừng để trống trải…
Chiếc máy
cũ có nhiều tật như người già mắc nhiều bệnh. Bây giờ ông ta đã quen hết tật
của nó… Ruban không nhảy, chuông không kêu, thước lên dòng không cân hai bên…
Ông ta có thể tự điều chỉnh, tự sửa. Nhưng khi đứt lò xo thì phải mang đến thợ.
Người thợ này đã quen các tật bệnh của máy, thấy ông ta khệ nệ bưng vào là biết
ngay, hỏi :
- Chữ gì nữa đây ?
Và thanh
minh :
- Sao lạ
kỳ … Loại máy này thép tốt lắm chớ, xài thật bền… mà sao…
Đến lượt
ông ta thanh minh ngược :
- Chắc là
tại tôi đánh nặng tay, không sao… anh sửa giúp gấp gấp, chiều tôi lấy.
Kể ra người
thợ cũng có cảm tình với ông ta và là chủ cũ của chiếc máy tự thấy có trách
nhiệm phần nào nên luôn dành cho ông ta cái điều gọi là ưu tiên, sửa máy chữ
cho ông ta trước.
Đến thời
mở cửa, rồi kinh tế thị trường, những giàn máy vi tính nhan nhản, nhiều người
có, nhiều tiệm “dịch vụ“. Người ta in thơ tặng nhau, thư từ có khi dùng vi
tính, chẳng ai thèm bận tâm đến máy đánh chữ. Bây giờ ông ta mới được thoải
mái, có thể đánh máy bất cứ lúc nào và khi sửa máy có thể để trần như vậy ôm đi
hoặc đặt sau xe đạp không cần bao phủ che đậy,
nhưng đã thành thói quen rồi, ông ta vẫn
e ngại có người nhìn thấy, đêm đêm vẫn giật mình bởi tiếng đánh máy vang lên quá lớn…
Nhiều
người khuyên ông ta :
- Máy vi
tính bây giờ có bao nhiêu đâu, rẻ mạt, rẻ như cho. Anh gắng mua một cái cũ cũ vài ba triệu mà dùng. Tiện lắm.
Viết bản thảo trên vi tính, đọc lại sửa chữa trên vi tính, khỏi mất công.
Ông
ta đáp :
- Để
coi, để coi…rồi phải cố gắng tính…
Nhưng rồi vẫn lóc cóc gõ máy đánh
chữ.
Đến lúc máy hư khá nặng. Người thợ
sửa không muốn làm công việc này nữa, tốn công mà tiền ít nên cứ hẹn rày hẹn
mai…
Trong khi chờ đợi, buổi chiều mưa
buồn, ông ta nhắn mấy đứa con rằng :
Chắc đến sau tết thế nào cũng mua máy vi tính, cần có sự tiếp sức. Ông ta nói
là nói vậy, cũng như nhà chật thì tỏ ý muốn sửa nhà, không có xe thì tỏ ý muốn
mua xe, thật ra chuyện mua máy vi tính còn nhiều mộng mị, mới là mầm mống manh
nha, chưa thực sự hình thành trong đầu óc.
Vậy mà… chiều hôm sau cửa hàng bán
máy vi tính cho mang đến, cùng với thợ lắp đặt, mọi chi phí con ông ta đã thanh
toán .
Căn gác rộng đúng bốn mét vuông, nơi
làm việc hàng ngày của ông ta, mùa đông lạnh và ẩm, không đủ tiêu chuẩn bảo
quản máy móc, ông ta phải tạm xa, dời xuống dưới nhà, lúc nào cũng ồn ào tiếng
nô đùa của đám cháu và thường có khách đến chơi. Ngồi trước máy vi tính sạch
sẽ, sáng sủa, bàn tay thao tác nhẹ nhàng… ông ta cảm thấy như có điều gì bâng
khuâng, tuy không hẳn là nhớ về những
ngày tháng cũ. Cái cảm giác không vui, không buồn, không hào hứng lắm nhưng
cũng không phải hờ hững trước mọi sự việc đã là cái cảm giác thường trực nơi
ông ta từ nhiều năm nay…
Bây giờ đã gần khuya… Trời lạnh nhưng
không mưa, cũng không có tiếng gió rít bên ngoài. Ông ta thấy lặng lẽ quá, thầm
mong có tiếng lóc cóc của chiếc máy đánh chữ cũ phá tan sự bình yên có phần nặng nề trong im vắng, bước
lên căn gác nhỏ.
Thiếu hơi người, không khí căn gác ẩm
mốc, mặt bàn rin rít, đưa bàn tay sờ lên
chiếc máy đánh chữ nghe ươn ướt… Ông ta
ngồi xuống, lau khô mặt bàn rồi chậm rãi cẩn trọng mở máy đánh chữ ra lau bên
trong, cài một tờ giấy, vặn trục… Tiếng máy không còn lóc cóc lóc cóc mà nghe “công cốc công cốc”
chát chúa. Ông ta dừng tay lại, thoáng sợ hãi như năm nào sợ toán dân phòng
tuần tra nghe thấy. Rồi chợt nhớ cảm tưởng một nhân vật của Alan Paton khi thức đợi bình minh, cái
bình minh không còn sợ hãi sự nô lệ và nô lệ sự sợ hãi… chẳng biết bao giờ mới
đến.
Chợt văng vẳng có tiếng hát ru …
Nắng ba năm ta không bỏ bạn
Mưa một ngày bạn vội bỏ ta …
Đây là
tiếng bà ru cháu, không phải mẹ ru con hay chị ru em. Lớp mẹ và chị hôm nay đâu
biết hát ru. Câu hát này còn dùng làm câu đố, có thể giảng nhiều nghĩa, ông ta
thích nhất cái nghĩa nó là bóng của ta.
Hôm đi chơi thành Tây Giai ở Thanh Hóa, cũng vào một ngày
mùa đông, mưa nhỏ lất phất, lúc đi hết
bốn cửa thành trở lại trung tâm ngồi bên đôi rồng đá rạn nứt thì trời chợt hửng nắng, những bóng người đổ dài
lên vệ cỏ ven đường, ông ta chợt nhớ câu đố này. Nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn vội bỏ ta…chính là bóng của ta. Chỉ có bóng của ta mới khắng khít chung
thủy với ta như thế, nó luôn luôn theo sát bên mình ta dưới ánh mặt trời. Nhưng
… là lời người trách bóng hay lời bóng trách người? Người bỏ bóng hay bóng bỏ
người? Mỗi bên đều có lý riêng để giải thích, biện minh … Chung quy cũng bởi
tại trời, khi nắng khi mưa, để cho người và bóng khi gần khi xa… Ông ta có cảm
tưởng như chiếc máy đánh chữ cũ kỹ mỏi mệt rã rời đang nói với ông ta như thế,
khác với hôm ở thành Tây Giai đôi rồng đá rạn nứt chỉ đóng vai trò để ông và
bóng hỏi nhau.
Trở
về chiếc máy đánh chữ, ông ta với máy
đúng là như hình với bóng. Những ngày khốn khó bữa cơm gạo chỉ một ít, phần
chính là khoai sắn. Nhào bột mì làm bánh, khi ăn còn thấy sót vài con mọt.
Những bài thơ, những truyện ngắn viết về cái ấm lạnh của quê hương Vân Hòa.
Những ngày lên miền núi qua đỉnh Mor
Ping mây trắng giăng đầy. Tiếng hát hào sảng của người dân chài. Ông lái
đò già nơi bến sông trưa nắng chang chang… Bao nhiêu hình ảnh được ghi lại trên
giấy từ chiếc máy đánh chữ cũ kỹ này. Những vui mừng khi thấy ý tưởng của mình
thể hiện khá trọn vẹn. Những lo lắng lẽ ra không đáng có, giờ này người ta gọi
là “bối cảnh lịch sử”, nghĩ lại cứ như chuyện
đùa… Tình sâu nghĩa nặng biết bao. Một tứ thơ thoáng hiện.
Ông ta
vặn cao trang giấy trong máy đánh chữ , gõ lên đó câu thơ vừa nghĩ. Tiếng công
cốc công cốc không còn gây cảm giác sợ hãi cố hữu ông ta cho rằng mỗi người làm
dân đều có, ít ra là nó ẩn trong tận cùng sâu kín của cõi lòng. Trái lại, âm
thanh khô giòn đã gây một sự phấn khích…
nhờ đó, ông ta có câu thơ thứ hai, thứ ba, rồi làm được hai khổ một bài thơ
thất ngôn…
Đột nhiên
ngón tay đang gõ xuống say sưa nghe nhẹ hẫng, cần chữ không đập lên, một lò xo
đã đứt. Dòng tâm cảm đang trào dâng, ông ta tháo tờ giấy, vơ cây bút bi, ghi
nhanh những dòng chữ nguệch ngoạc…
- Ngày
mai lại phải đi sửa rồi, dù dùng hay không dùng cũng phải sửa, sửa rồi cất, để
thỉnh thoảng đôi khi …
Ông ta
nghĩ như vậy và quen trong tư thế cũ, ngồi thẳng dậy, tựa lưng ra thành ghế…
(2000)
Trần Huiền Ân