Có một cô bé ngày xưa rất yêu thơ và tập
tành làm thơ. Thơ cô là thơ con nít yêu cha mẹ yêu thầy cô trường lớp bạn bè. Lớn
lên một chút là những bài thơ tình mơ hồ mông lung sương khói. Như nhiều cô bé
thuở ấy. Nhưng không giống nhiều cô bé hồn nhiên thuở ấy ở các thành phố lớn,
cô còn làm thơ… chiến tranh. Không thể khác được, vì cô gần như sống trong lòng
nó, từ những ngày bé thơ ngủ hầm với ngoại trong vùng xôi đậu cho đến khi lớn
lên thành thiếu nữ. Cô bị chiến tranh ám ảnh. Cô bị những cái chết phi lý trong
chiến tranh ám ảnh. Cô bị những cuộc chia lìa vì chiến tranh ám ảnh. Và dường
như cô già trước tuổi.
Hoài là cô bé dường như già trước tuổi ấy.
Bốn mươi hai năm trước.
Mùa hè năm cuối cùng bậc trung học đệ
nhị cấp, một mùa-hè-đỏ-lửa với bao biến cố, người bạn lớn xa xôi đã gởi tặng
Hoài một món quà tuyệt vời: tập thơ Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi của nhà thơ
Nguyễn Bắc Sơn(*). Hoài lập tức bị ấn tượng mạnh với giọng thơ mà – với
riêng Hoài – hào sảng không phải hào sảng, bất cần không phải bất cần, mà là một
cái gì trên cả hào sảng và bất cần.
Ta
sống ở đời như một kẻ nhàn du
Trôi
qua tháng, trôi qua ngày, trôi trên cuộc đời huyễn mộng
Trôi
từ chiếc nôi ru đến nấm mồ
Trên
trái đất có rừng già núi non cùng biển sóng
Trong
Nguyễn Bắc Sơn có một kẻ làm thơ
Kẻ
làm thơ đôi khi biến thành du đãng
Hoặc
nhà tu theo khí hậu từng mùa…
(Chân Dung Nguyễn
Bắc Sơn, trang 41)
Chìm khuất sau những câu thơ như ngông
như nghênh ấy là một nỗi đau xót không nguôi cho phận người trong chiến tranh –
của chính người viết những câu thơ ấy và của bao người chung quanh cùng cảnh ngộ.
Mày
về thăm ta như chuột lột
Thất
thểu chỉ còn xương với cốt
Tráng
sĩ kia hề qui cố hương
Thê
thảm còn hơn thằng cốt đột
Tráng
sĩ kia hề qui cố hương
Chinh
chiến sao mày không chết tốt
Dăm
đồng rượu trắng vội bày ra
Nhậu
để khói sầu lên ngút ngút
(Bài Hát Khổ Nhục, trang 28)
Hay có phải vì đau xót quá mà như hóa
ngông nghênh bất cần?
Ngày
trước mày hiền như đất cục
Giờ
mở miệng ra là chửi tục
Hà
hà ra thế con nhà binh
Ngôn
ngữ thơm tho như mùi cứt
(Bài Hát Khổ Nhục, trang 29)
Hoài có một nhóm bạn cùng lớp rất thân
thương suốt bảy năm trung học ở một ngôi trường nhỏ nơi một quận lỵ nhỏ. Làm gì
đi đâu cũng rộn ràng gái trai cả lớp. Năm mùa-hè-đỏ-lửa, Hoài đang học lớp cuối
cùng bậc trung học. Bọn con trai trong lớp Hoài chỉ được tiếp tục học sau khi đậu
Tú Tài II mà không dư một tuổi nào. Quá 18 tuổi là phải vào quân trường. Ở nhà
quê, ít đứa được học đúng tuổi như Hoài, mà thường đi học trễ. Nên bọn con trai
bạn Hoài hầu hết đều đi vào quân trường sau khi xong bậc trung học. Hoài đọc
thơ Nguyễn Bắc Sơn và Hoài thương bạn bè mình lắm.
Ngoài
nghĩa trang có một tòa cổ miếu
Trưa
học về chàng hay trốn vào đây
Gửi
tâm hồn vào những đám mây bay
Đi
tranh luận cùng thánh hiền thiên cổ
Đến
thư viện chàng vội vàng trở lại
Chồng
sách cao chôn mất nửa đời người
Còn
thi ca? Ta không còn muốn nhớ
Những
thiên đường không tưởng tuổi mê chơi
(Những Năm Tâm Hồn Còn Trữ
Tình…, trang 35)
Ph. là người bạn duy nhất trong lớp
Hoài biết thổi sáo. Tiếng sáo của Ph. rất tuyệt vời. Thực ra trong lớp có đứa
nào ngoài Ph. biết thổi sáo đâu mà không tuyệt vời! Chỉ mấy tháng sau ngày rời
quân trường TĐ, Ph. đã ra người thiên cổ.
Mùa
bão rớt đưa tang trong thành phố
Anh
không về theo ngõ tối bờ sông
Từng
tối đến anh không về thổi sáo.
Vì
phố lầu không có kẻ ngồi mong.
(Những Năm Tâm Hồn Còn Trữ
Tình…, trang 36)
Ph. không về nữa không phải vì phố lầu không có kẻ ngồi mong, mà vì một
viên đạn vu vơ vô minh nào đó ở tận miền Tây sông rạch bùn lầy. Nhiều năm sau,
Hoài vẫn còn rùng mình ớn lạnh mỗi lần nghe tiếng sáo vi vu đâu đó. Nhớ Ph. Và
những vạt nắng cuối ngày chiều biên giới… Và Th. nữa. Hoài đã kênh kiệu vô tình
làm Th. đau đớn dằn vặt suốt những năm tháng thơ ngây chỉ vì tính trẻ con của
mình. Th. với Hoài đã là bạn hàng xóm bạn học với nhau từ thuở bắn bi thuở còn
mũi dãi lòng thòng. Hoài đã để Th. ra đi, lòng còn rất nặng, cũng vì một viên đạn
vô minh ở Bồng sơn xa xôi, mà không một lời xí xóa cho nhau. Th. không còn kịp
sống đến tuổi già để còn có lúc gặp lại mơ màng nhắc chuyện thời thơ bé. Hoài nợ
Th. một lời xin lỗi Th. ơi.
Trùng
bọt biển tắp chìm vào chân sóng.
Em
là chim bay thoát tới trời xa
Ta
còn ta trong cánh rừng hoài vọng
Vuốt
tóc bồng theo dấu vết em qua.
(Những Năm Tâm Hồn Còn Trữ
Tình…, trang 35)
Và bạn lớn. Bạn lớn đã tặng Hoài tập
thơ ấy trước khi vào quân trường, cũng trong mùa-hè-đỏ-lửa mà các bạn trai cùng
lớp của Hoài ra đi. Một lời nhắn gởi gì chăng? Đường xa dịu vợi, bao nhiêu bất
trắc đợi chờ trong bom đạn, biết có còn ngày trở về nguyên lành như xưa? Những
câu thơ Nguyễn Bắc Sơn làm Hoài thắt ruột và thuộc lòng rất nhiều năm sau mỗi
khi nhớ về bạn lớn – với trí tưởng tượng thuở mười tám tuổi.
Một ngày chủ nhật phơi giày trận
Ta
bỗng tìm ra một vết thương
Vết
thương bàng bạc như là khói
Ngưng
đọng nhà ai ở cuối đường
Mày
gửi một chân ngoài trận mạc
Mang
về cho mẹ một bàn chân.
Mẹ
già khóc đến mù hai mắt
Đời
tàn trong lưa tuổi thanh xuân.
……………………………………
Ta
mắc bệnh ung thư thời chiến
Thoi
thóp còn một trái tim khô
Sợ
hãi con người hơn thú dữ
Nhìn
nơi nào cũng thấy hư vô
(Căn Bệnh Thời Chiến,
trang 26 & 27)
Thơ Nguyễn Bắc Sơn. Một thời mới lớn của
Hoài. Có vẻ như khập khiễng khi một cô bé mười tám tuổi sống trong sự bảo bọc của
gia đình lại quá ngưỡng mộ lời thơ ngang tàng của ông? Có phải thơ ông không hợp
với cuộc đời Hoài? Xin hãy để chữ duyên tiền định trả lời. Dù sao Hoài cũng đã
GẶP thơ ông và những giòng thơ ấy đeo đẳng Hoài suốt mấy mươi năm.
*
Qua bao biển dâu, mất mát và thất lạc
nhiều thứ của đời mình, Hoài vẫn còn đây tập thơ ngày cũ. Giấy đã úa vàng.
Nhưng thơ vẫn ngút trời một giọng rất riêng. Chiều mùa hè. Nắng như lửa và trời
oi nồng ngột ngạt. Hình như là nắng và trời của bốn mươi hai năm trước. Những
hoài niệm chợt sống dậy. Không phải để nuối tiếc (nuối tiếc gì những ngày bom
rơi đạn nổ?!), mà nhớ để cảm ơn và yêu thương cuộc đời này hơn, vì một điều thật
đơn giản: đã có người SỐNG như vậy, LÀM THƠ như vậy, đem cả đời mình CHƠI VỚI THƠ như vậy.
Để cuộc đời này, trong đó có Hoài, mãi còn có một CÕI tuyệt vời cho con người SỐNG
VỚI, ngoài cơm ăn áo mặc đời thường.
NGỌC BÚT
(*) Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi, thơ Nguyễn Bắc Sơn, nhà xuất bản Đồng Dao, Saigon 1972.