Bạn
tin có số mạng không? Người tin thì bảo Giày
dép còn có số, huống gì con người Người
không tin, quạt lại Mấy
thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không? Hay chỉ nói phét
kiếm tiền? Người
tin với người không tin, cãi nhau, có bao giờ ai chịu thua ai! Nay tôi xin kể,
một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét, rằng con người có số phận
hay không?
Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ
nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách
trên tay. Khi về hưu, ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà
con chòm xóm trong các vụ quan hôn tang tế. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến
nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao? Dĩ nhiên con cháu trong
nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì
lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất
tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra
trước mà thôi. Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa
cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng
con, muốn gì được nấy. Thời Pháp thuộc, bố tôi làm Jeunesse, là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh niên, thể thao
của thị xã. Đến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng chiến và mất
tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng
nông thôn, ít lâu sau hồi cư về lại thành phố. Đó là một thị trấn miền biển,
cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và
đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.
Trở
lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ
nên thỉnh thoảng ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ
trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá
số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại bàn cãi, lý luận rất sôi nổi
nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không
ra?! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện
sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự
huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận
tâm. Đến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri
thiên mệnh, nhưng ông tôi vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm,
ông gọi riêng tôi và bảo.
-
Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất
phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng
chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?!
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi.
-
Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.
Ông tôi cười.
-
Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo nài, thêm bớt được.
-
Như vậy tương lai của con ra sao?
Ông tôi trầm ngâm.
-
Cái số của con thì luôn luôn được may mắn, đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn
ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy
ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy. Nhưng lá số của con có điểm mờ
ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy Đức năng thắng số sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho
vững cái đạo của người quân tử...
Tôi tò mò.
-
Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông?
Ông tôi lại cười.
-
Người xưa nói rằng Nhất
mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư...Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều
vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, chứ còn chuyện học hành, cố cho
lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa
nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.
Chuyện
dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không tin, nhưng tôi vẫn
hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo.
- Vậy
nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?
Ông
tôi có vẻ hào hứng lắm.
- Về
mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất
rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan
tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông
kết phát...
Mấy
hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt
mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển. Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng
cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặt biệt, huyệt mộ
nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ
sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con
cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để
ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.
Từ
nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do ông tôi
lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu,
chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất thì tôi như
ngựa không cương, mặc sức leo lổng, chẳng ai quản lý được cả. Đi học về là vất
sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong
là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò đến khuya mới về nhà, lăn ra
ngủ. Đến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm hành
trang ứng thí. Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm,
bài nào tôi cũng thấy mới tinh!
Con
người khi gặp khó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng
vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ,
nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử
cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa. Tôi vẫn tiếp
tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè... trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa
nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một
mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ...
Thực
tâm, tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là
tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì
xuống, long trọng khấn vái Ông nội
chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết Khi ngẩn lên, nhìn ảnh ông tôi, quả
nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm. Mỗi môn học, tôi
lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra, độ năm bài, theo kiểu
tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy
mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt
lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày,
học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!? Chúng thắc mắc, tôi phét lác.
-
Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.
Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà
làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi - thi đâu đậu đó - và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên
tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông.
Thi
tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn
trúng tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt. Số là, khi vào vấn đáp,
giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu
nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm. Lạng
quạng là ông ta đuổi ra và nói Anh
về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào
thi trước. Đứa nào thi xong, bước ra, mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần,
bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy
bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Đến khi không còn đứa nào nữa tôi mới
rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám. Mặt hầm hầm như sắp
bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh, ông không thèm
nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy
Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng
cây? Tôi trình câu hỏi
cho ông ta. Ông ta bảo.
-
Nói đi!
Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có
trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn
toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi
biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi
cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại
nhắc.
-
Nói đi!
Tôi
khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột
vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi. Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói.
-
Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tàng cây, vì khi ngủ dậy người uể oải,
khó chịu!
Ông
ta ngẩn lên nhìn tôi.
-
Sao anh biết?
Tôi
thấy le lói một tia hy vọng.
-
Thưa thầy, buổi tối, em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng
dậy, thấy hơi mệt mõi trong người.
Ông
ta ngước nhìn tôi, mặt lạnh tanh.
-
Đây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng
minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không? Anh biết cạt bô níc
là gì không? Viết công thức ra xem?
Tôi
gãi đầu! Ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa,
nhưng công thức viết thế nào? Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như
người thất tình, ông giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang
gặp phải người ngoài hành tinh, gì cũng không biết! Ông cầm thẻ học sinh của
tôi lên. Đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi.
-
Anh học vạn vật với thầy nào?
-
Thưa thầy, em học với thầy Đồng Đen.
Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của
các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy
cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tộâi phạm húy!
Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo.
- Gặp
thầy Đồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm.
Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay. Gần hết giờ rồi!
-
Thưa thầy, em là người chót.
Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu.
Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng.
Bạn
thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa
đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào
đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút
thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ
như ông Phật! Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng,
tưởng như mình nằm mơ. Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Đúng như
ông tôi nói Thi đâu đậu đó!
Cũng
chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học
Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Đốc
Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (?!), phải thông thạo luật
lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến
Pháp. Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác.
Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở. Một
buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm đọc chờ
giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài Hành Pháp của giáo sư Nguyễn Văn
Bông. Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài
đến từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi
có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Đốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt
còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không?
Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một
trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại
chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa.
Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được?
Sau
bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi
chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền
giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi. Tôi về địa
phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn
ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng rậm, thỉnh thoảng
nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn...Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình
nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như
trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp
đỡ đồng bào trong quận. Nói ông
quan thanh liêm cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền
hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều
có lý tưởng, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi. Tôi
còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các
cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi
cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng nghĩ
đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời
tư của tôi ra mà bêu riếu.
Thời
gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi
vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên
hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?! Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp
sĩ quan Thủ Đức. Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội,
tôi là người văn võ toàn tài, sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ
huy mấy ông tướng lãnh.
Mãn
khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công
vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân
viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và
con đường công đanh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi.
Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy
lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của
việt cộng.
Khi
có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem một
tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập,
chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Đến chiều hết
giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng
mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập, cải tạo là các trường học Gia Long,
Trưng Vương, Don Bosco (?)...Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau,
lúc nửa khuya, bộ đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội,
sát khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với.
Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15
NV. Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ
biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có
sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba
trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù. Giai đoạn đầu, tù được
thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm
chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân...Khai
xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng
(cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội
trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng
chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát, những bài hát
cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy...Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ,
Ngụy nào đâu chứ không phải mình! Hát bài Chiếc
Gậy Trường Sơn, bài Bác đang
cùng chúng
cháu hành
quân cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm
thù, cũng tình cảm lai láng như mình là bộ đội, là cán bộ việt cộng vừa chiếm
được miền Nam và đang làm thịt quân dân cán chính miền Nam để trả thù...
Mấy
tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi
tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình. Đúng y bon, một lần bọn
tù chúng tôi hát bài Giải
phóng miền Nam, đến câu Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng... thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A, thình lình
xuất hiện ngoài cửa, nạt vào.
- Dẹp,
không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy,
tôi cùm đầu!
Vào
nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù
không biết ngày nào ra? Khổ nổi, cán bộ cộng sản lại bảo Ty Công Vụ là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày
ra Bắc cho chóng chết.
Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi
là thời sướng nhất trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn
lo, vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn
tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh...Buổi chiều kéo nhau ra
bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi như đi nghỉ hè một tháng.
Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng
vô thì coi như bị thất nghiệp!? Ngây thơ đến thế là cùng!
Riêng
tôi thì hoàn toàn thất vọng. Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi, trước giờ rất
đúng, nay bỗng nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy?
Trong
trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà
nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rải, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân một lúc
các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của
tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có
đúng giờ chào đời của tôi không? Sau khi được xác nhận là đúng y trăm phần
trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẻ ngang, vẻ dọc...Rồi
ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn tới bàn lui,
cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch,
hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng
lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa. Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát
và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một
cách nghiêm trang.
- Cậu
biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?
-
Tôi làm đội trưởng.
- Cậu
có biết, dưới tay cậu có những ai không?
Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội
tôi...Ông A, ông B, ông C...Ông ta lại hỏi.
- Mấy
ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?
-
Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...
Ông bạn tù giải thích.
- Thủ
tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Đây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp,
lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng
với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!?
Tôi nổi xùng.
-
Các ông đó đâu còn làm quan chức gì?
- Cậu
thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ
vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp mấy
quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?
Cả bọn
cười vang, nhưng tôi không cười. Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày
xưa, đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt
ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế,
cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền
ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn cơm tù để hiểu
thế nào là thằng tù cải tạo cộng sản.
Từ
trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, ( là
loại bao chỉ xanh có thể chứa đến một trăm ký gạo ), nghe cán bộ bảo để đựng vật
dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại bảo để có sẵn mà cho thằng tù vô bao bố, thả
xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu
mà phải dùng bao bố?
Chúng
tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng chờ sẵn mắng nhiếc
và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp riêng, đồng bào
họ lại bảo Nhân dân miền
Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!
Tôi
chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương
lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định
làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm cũng nên, mà
dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành
hành pháp, tư pháp, lập pháp...đủ cả.
Gần
mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp...sống
qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối
không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một
mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà
mấy chú ba tàu đặt ra mục đích lừa phỉnh,
dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.
Thế
rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng tây,
tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí. Thị trấn
tôi ở, thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Đủ thứ
người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á
Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo. Tôi ở trong một chúng cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội.
Trộm cắp, hút xách, đánh lộn...ngày nào cũng xảy ra. Đậu xe, khóa cẩn thận, nhưng
chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Đôi khi chúng ăn cắp
xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt
cóc...Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la
lên, cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám
làm gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng
vì người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt. Thấy thế tôi nổi xùng,
vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ, có gì binh vực,
giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả
hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Kết quả là từ đó, chúng chừa người Việt,
không quấy phá nữa. Các chúng cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn
kết lại. Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ Tết,
tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống...Sau cùng thành lập một cộng đồng lớn, bầu
cử Hội Đồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách
liên lạc với chính quyền địa phương. Đến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không
muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước ảo như đội
trưởng, tổ trưởng trong tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi
tham gia Hội Đồng Quản Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi cự nự
như muốn gây lộn, họ vẫn năn nỉ, tôi đành
chấp nhận, nghĩ mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất họ sẽ chán,
thế nên, khi họ bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối. Nhưng rồi
vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban Chấp
Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có lẽ cô
không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra, hồn vía lơ lửng
đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng đúng là đẹp không thể tả! Mắt cô một mí, khi cô cười thì như nhắm
lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả một
hồ nước mùa thu
long lanh, nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi chết mê chết mệt, mặt
cứ thộn ra, ai cũng thấy rõ. Thế là từ lần
đầu gặp gỡ,
hình ảnh cô, đôi mắt, nụ cười của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng
dạ tôi cứ lộn xộn, lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương
là tôi yêu cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội
vì cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh Văn,
hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp đỡ, hướng dẫn đi
xin trợ cấp, xin việc...Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với
chính quyền và các cộng đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông cựu
trung tá, gia đình cô có một nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách
nên cô có thì giờ lo việc cộng đồng. Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp
trong tiệm (tôi làm cu li, sai gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm
chuyện thiên hạ. Chở người nầy đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ
cấp...Đi đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện lí do là không rành tiếng Mỹ. Cô
thì lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô lại
nghiêm trang, mắt luôn nhìn phía trước, không cười khi tôi pha trò! Coi bộ cô
không có cảm tình với tôi, nhưng khi đã yêu thì kể sá gì chuyện có được yêu lại
hay không! Nghĩa là cứ
nhào đại vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết ai Nghĩ thế
nên tôi tìm dịp cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô. Nhưng phải làm cách
nào mà nếu có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu ngay, ngược lại cô sẽ cho rằng chuyện
đó không liên can đến cô. Nghĩ mãi tôi mới sáng tác ra được một chuyện tình để
tìm cách kể cho cô nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng đến nhà hàng của gia đình
cô để uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi, ngồi đối diện, nói vài câu
xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút cô mới đứng lên, vào bên
trong lo việc bếp núp. Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi kể chuyện nầy, hay lắm! Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt.
- Cô
có còn nhớ, tuần trước tôi và cô ra phi trường đón một gia đình HO, gồm năm người,
trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới gặp mà đã đem lòng thương
yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, má lúm đồng tiền, nói năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi
thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào để tỏ tình. Yêu thầm cũng được
nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi sẽ chán đời hoặc thành người điên mất.
Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì cho cô ấy hiểu được tình tôi? Tôi có nên nói ra
cho cô ấy biết không?
Cô lặng yên một lúc rồi nói.
-
Chuyện tình yêu của anh, anh nên hỏi những người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng
tôi làm sao có ý kiến được, hơn nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ
của cô ta...
Nói
xong cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của tôi
không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống cà phê, cô
không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi làm phiền. Tôi buồn
chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, đối với tôi tuy vẫn đẹp nhưng rất xa lạ, và
tôi ngượng, không dám gặp cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương mới đến xứ
Mỹ, chúng tôi cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút nào, cô ngồi
bên cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình, không rủ cô
đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác.
Ban
Chấp Hành Cộng Đồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người, nhưng công việc, họ
giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu. Trước đây, tôi bon chen cho được
cái chức chủ tịch là để được dịp gặp người đẹp, nay thì tôi đã chán rồi, muốn
rút lui. Thế nên nhân trận thiên tai vừa rồi ở Việt Nam, ban đại diện cộng đồng
phát động chiến dịch gây quỹ cứu trợ bão lụt đồng bào trong nước. Buổi họp có vẻ
sôi nổi lắm. Lên kế hoạch, chương trình rất kỹ lưỡng, nào là tổ chức văn nghệ,
rồi bữa tiệc gây quỹ, ý kiến, đề nghị rất sôi nổi, nhưng cuối cùng lại giao cho
Ban Chấp Hành làm cả! Tôi họp mọi người để phân công. Mấy ông trong ban chấp
hành lại giao cả cho hai đứa tôi. Tôi quyết liệt phản đối thì các vị đó lại cười.
- Tụi
tôi biết anh quá mà! Lúc trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công,
bây giờ vận động đồng bào đi ăn nhậu, xem ca nhạc... là chuyện nhỏ!
Tôi ngạc nhiên.
-
Sao quí vị biết tôi đi tù cải tạo?
Các ông ấy nhao nhao lên.
-
Anh quên tụi nầy, chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy vẫn còn nhớ anh. Đi
chung một chuyến " Bao Bố 2 (đi đợt hai)", ra ngoài Bắc, đi đâu anh
cũng làm đội trưởng tụi nầy.
Lúc
đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời gian quá lâu,
hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, trong tù thì đưa bộ xương cách trí, qua Mỹ thì mập nu, nên không nhận ra,
vả lại, khi có người đẹp bên cạnh, tôi chẳng nhìn thấy ai khác nữa!
Lại
mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp... ngày xưa! Và tôi vẫn lại làm
xếp họ! Tôi đâu khác gì quan tể tướng?
Lúc
trong tù tôi không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói bye! một
tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi cãi lại số mệnh
để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa hay không? Còn mấy vị
quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi vào với người đẹp để tôi phải
làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại họ. Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con
rắn mất đầu cựa quậy ra sao? Thế nên tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi
quí vị ấy tiếp tay, liên hệ với các hội đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm
rầm rộ, hiệu quả. Dự định xong vụ nầy tôi sẽ lặng lẽ ra đi với một quả tim nặng trĩu buồn phiền!.
Chiều
hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi, nán lại ít phút để
bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay.
- Cô
thấy nhiệm vụ của chủ tịch ban chấp hành có khó khăn, vất vả gì không?
Cô nhìn tôi dò xét.
-
Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên nghĩ là không khó khăn
bao nhiêu.
- Thế
cô có thể thay tôi làm chủ tịch được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh
nghiệm trong việcï nầy.
Cô ngạc nhiên.
-
Anh định làm gì mà trao chức chủ tịch cho tôi?
-
Tôi sắp đi tiểu bang khác.
- Vì
sao vậy? Có ai làm phiền anh? Hay là vì người đẹp mà anh đã kể cho tôi nghe?
Tôi đóng
pha buồn. Mặt dàu dàu, mắt nhìn vào nơi xa
xăm(!), rồi thở dài.
-
Đúng rồi, tôi thất tình cô ta nên muốn đi xa. Tuy biết, rời nơi đây, tôi sẽ nhớ
cô ấy lắm....Tôi hy vọng, khi thay thế tôi làm chủ tịch, cô sẽ được mọi người
giúp đỡ.
Cô lắc đầu.
-
Tôi không muốn chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào trong lúc mới đến xứ
Mỹ xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà thôi...
-
Thôi được, tôi sẽ đưa ra Hội Đồng Quản Trị giải quyết. Dù sao thì tôi cũng nhất
quyết đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng bây giờ tôi buồn chán lắm rồi.
Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi một việc làm ở đó.
Lúc
đứng lên cô cười mím mím hỏi.
-
Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa? Không có tiền thì tôi cho ghi sổ.
Tôi vẫn thiểu não.
-
Khi thất tình thì đến đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng
sáng mai tôi sẽ đến, thưởng thức cà phê do cô pha lần cuối trước khi lên đường.
Sáng
hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê ra cho tôi còn ngồi đối
diện, cười nói vui vẻ.
-
Tôi mang đến anh một tin vui đây.
-
Đang rầu thúi ruột, vui gì nổi!
-
Vui chứ! Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó là cô
Bé Ni không? Tôi hỏi Bé có thương chú Vy không?' Cô bé trả lời Dạ thương! Tôi hỏi Thương
nhiều hay ít? Cô bé nói Dạ
thương nhiều! Vậy
anh vừa lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi phải không?
Tôi kêu
lên.
- Trời
đất! Cái con bé năm tuổi đó thì tôi làm sao thất tình được!?
Cô
nhìn tôi hóm hỉnh.
-
Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta từ chối, anh thất tình, đòi đi nơi khác. Nay
tôi hỏi lại, cô ta nói thương anh nhiều thì anh còn đi đâu nữa?
Tôi
lắc đầu.
- Đó
là tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô ta không ưa tôi nên
tôi...
Cô
nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi. Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà
tôi không nói thì không còn dịp nào khác
nữa.
-
Bây giờ, tôi sắp đi tiểu bang khác nên tôi liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh
tôi, cũng không làm gì được. Hôm trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra
tôi muốn nói là tôi yêu cô. Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ
để trong bụng, ấm ức, không chịu được. Bây giờ nói xong rồi...Chỉ xin cô đừng
cho ai biết lý do tôi đi tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu của tôi
làm cho cô bực mình...
Cô
cúi xuống, chấm ngón tay vào li nước, vẽ linh tinh trên bàn, một lúc mới nói.
- Ai
cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh. Nếu anh có tỏ tình với em
mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh đâu? Tư cách anh đàng hoàng, lại
có lòng vị tha, yêu thương đồng bào...Ai cũng mến phục anh. Hôm trước, nghe anh
nói, lúc đầu em tưởng anh nói thật, cứ tự hỏi. Có cô nào mắt lá răm, má lúm đồng
tiền giống mình? Em đi tìm gia đình HO mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết
ngay là anh muốn nói về em. Em cảm động lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh
vừa sợ anh...
Bao
năm nay, quí ngài cựu quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch,
làm xếp họ. Hễ kiểm phiếu, thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên.
-
Hoan hô chủ tịch gia đình trị!
Chỉ
vì vợ tôi vẫn lại là cô phó chủ tịch ngoại vụ năm nào.
Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến Con người có số mạng không?
PHẠM THÀNH CHÂU