Kate
Chopin (1850 – 1904.)
Tên thật Katherine O’Flaherty. Bà là một học
giả, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, cư dân trong tiểu bang Louisiana.
Sinh
quán ở St.Louis, Missouri. Lấy chồng, dời về New Orlean.
Hai tuyển
tập truyện ngắn: Bayou Folk (1894) và A Night in Acadie (1897) với những truyện
nổi tiếng như Désirée’s baby (1893), The Story of an Hour (1984), The Storm
(1985)
Tiểu
thuyết: At Fault (1890), The Awakening (1899). Sau khi qua đời, bà được công nhận
như một nhà văn nữ dẫn đầu trong thời điểm đó.
Nhà ở của
bà được trở thành nhà lịch sử quốc gia. Trở thành Bayou Folk Museum, năm 2008.
Bà được
vinh danh là ngôi sao của St. Louis Walk of Fame.
Truyện Của Một Giờ
Biết bà
Mallard bị bệnh tim, người ta hết sức cẩn thận tìm cách nhẹ nhàng nhất để báo
tin chồng bà đã qua đời.
Josephine,
chị ruột của bà đã nói bằng những câu rời rạc, đưa ra những gợi ý, tiết lộ một
nửa, che đậy một nửa. Bạn của chồng bà, Richard, cũng hiện diện lúc đó, ở cạnh
bà. Chính ông đã ở trong tòa soạn nhật báo, khi nhận được tin cho biết thảm họa
xảy ra trên đường rầy xe lửa, thấy tên Brently Mallard đứng đầu danh sách nạn
nhân tử vong. Richard đã bình tĩnh chờ đợi bức điện báo thứ hai để bảo đảm, đó
là sự thật. Rồi vội vàng ngăn cản những người quen kém cẩn thận, ít dịu dàng,
trong việc nhắn báo tin buồn này.
Bà
Mallard không được như một số phụ nữ khác nghe tin báo, sự tê liệt xảy đến như
không thể chấp nhận thực tế khốc liệt. Rồi đột nhiên, ngay lập tức, bà bật
khóc, rũ rợi điên cuồng trong vòng tay người chị. Khi bão tố đau đớn đã kéo
qua, bà đi vào phòng một mình, không muốn ai đi theo.
Đối diện
với cửa sổ mở, một chiếc ghế bành rộng rãi, thoải mái. Bà gieo mình xuống ghế,
chìm sâu. Sự kiệt quệ đè nặng xuống tàn tạ thân xác và dường như đã chạm đến
linh hồn.
Bà có thể
nhìn thấy trong sân rộng trống trải trước nhà, những ngọn cây đang xanh non
tưng bừng sức sống mùa xuân. Mưa bay mang hơi thở ngọt ngào trong không khí. Ở
đường phố bên dưới một người bán hàng rong đang lớn tiếng mời gọi. Ai đó đang
hát, giai điệu xa xôi vọng về, chạm vào bà một cách yếu ớt. Thấy vô số chim sẻ
bay lượn trên những mái hiên nhà.
Thấy những
mảng trời xanh lốm đốm qua những đám mây đang ráp vào nhau, mây chồng lên mây, ở
phía tây đối diện với cửa sổ.
Bà ngồi,
đầu dựa ngửa lên gối trên ghế, bất động, ngoại trừ khi tiếng nấc nhẹ phát ra từ
cổ họng khiến thân thể run lên, như đứa trẻ khóc mỏi mòn gục vào giấc ngủ vẫn
còn thút thít trong giấc mơ.
Bà còn
trẻ, với khuôn mặt đẹp, điềm tĩnh, có những đường nét thể hiện sự đè nén, kể cả
một sức mạnh nào đó. Nhưng bây giờ ánh mắt bà vô hồn, nhìn sửng vào một mảng trời
xanh. Không phải là cách nhìn phản xạ, mà là sự đình chỉ của trí não.
Có điều
gì đang sắp xảy ra và bà chờ đợi, với lòng sợ hãi. Là điều gì? Không thể biết.
Chuyện trở thành tinh vi và không có tên gọi. Nhưng bà cảm nhận được, nó đang
len lỏi ra khỏi bầu trời, chạm vào bà qua tiếng động, mùi hương, màu sắc tràn đầy
không gian.
Lúc này,
bờ ngực phập phồng hỗn loạn. Bà bắt đầu cảm thấy có thứ gì đang tiến đến, chiếm
đoạt lấy mình. Bà cố gắng chống cự bằng ý chí, nhưng bất lực chỉ hai bàn tay trắng
bệt mảnh khảnh.
Khi bà
thả lỏng bản thân, một tiếng thầm thoát khỏi bờ môi hé mở. Bà lập đi lập lại
trong hơi thở: “giải thoát! giải thoát! giải thoát!” Tiếp theo là cái nhìn đăm
đăm, chứa đầy kinh hãi từ đôi mắt của bà, bây giờ trở nên dữ dội và sáng quắc.
Nhịp tim gia tăng đập nhanh lên, máu ấm túa ra làm thư giản từng sớ thịt trên
người.
Bà không
ngừng lại để tự hỏi, có phải một niềm vui quái dị đang ôm lấy mình. Một nhận thức
phấn khởi minh bạch xóa tan ý nghĩ tầm thường kia.
Bà biết
bà sẽ khóc trở lại khi nhìn thấy đôi bàn tay tử tế, dịu dàng chắp vào nhau chết
cứng. khuôn mặt chưa bao giờ biểu lộ nét cứu rỗi bởi tình yêu của bà, đang lạnh
giá, xám xịt và chết chóc. Nhưng rồi nhìn xuyên qua khoảnh khắc thương cảm đó,
bà nhìn thấy một hành trình dài với năm tháng hoàn toàn thuộc về mình, bà sẽ mở
rộng vòng tay chào đón.
Sẽ không
có ai sẽ sống thay cho bà trong nhiều năm sắp đến, chỉ mình sống cho mình. Sẽ
không còn ý muốn quyền lực nào uốn nắn bà trong sự quyết tâm mù quáng, mà một cặp
đàn ông đàn bà tự tin, họ có quyền áp đặt ý muốn riêng lên người bạn đồng hành.
Dù là ý muốn tử tế hoặc ác tâm, hành động áp đảo đó dường như không kém gì phạm
tội, khi bà bất chợt nhìn thấu nó trong khoảnh khắc được soi sáng.
Đôi khi,
bà cũng yêu ông, thường xuyên thì không. Đã không còn quan trọng nữa! Một bí ẩn
chưa được giải đáp, tình có thể yêu không, khi sống dưới sự chiếm hữu quyết
đoán mà đột nhiên bà nhận thấy, như một thôi thúc mạnh mẽ nhất trong người.
“Tự do!
Giải thoát cả xác lẫn hồn!” Bà tiếp tục thì thầm.
Chị
Josephine vẫn quỳ trước cánh cửa khép kín, kề môi vào lỗ khoá, xin bà mở cửa
cho vào. “Louise, mở cửa. Chị xin em, mở cửa. Em sẽ đổ bệnh. Louise, em đang
làm gì? Chúa ơi, hãy mở cửa.”
“Chị đi
đi. Em không bệnh đâu.” Đúng, bà không bệnh. Bà uống một liều thuốc
tiên của đời sống qua cửa sổ đang mở.
Sự tưởng
tượng của bà đang nổi loạn theo những tháng ngày tương lai. Mùa xuân, mùa hè, đủ
loại thời gian thuộc về bà, nghe trong hơi thở phào, lời cầu nguyện được sống
lâu thêm.
Chỉ mới
hôm qua, bà rùng mình khi nghĩ cuộc đời còn dài. Đứng dậy, mở cửa cho người chị
vào. Ánh mắt bà sốt lên nỗi thành công và vô tình tự biến mình thành Nữ thần
Chiến thắng. Bà ôm chặt eo Joshepine, cùng nhau bước xuống cầu thang. Kìa, ai
như Richard, chồng bà đang đứng đợi dưới kia.
Ai mở
khóa cửa trước, chính là Brently Mallard đi vào, hơi sạm đen vì chuyến đi, điềm
tĩnh tay cầm xách du lịch và chiếc dù. Khi xảy ra tai nạn xe lửa, ông đang ở xa
hiện trường. Thập chí không biết gì về thảm họa. Ông kinh ngạc khi nghe tiếng
gào chọc trời của vợ. Phản ứng nhanh chóng, ông né sang một bên, tránh mắt nhìn
của Louise.
Nhưng
ông đã quá muộn.
Khi bác sĩ khám xong, tuyên bố bà qua đời vì bệnh tim. Thật ra, niềm vui đã giết chết bà.
NGU YÊN dịch từ nguyên tác THE STORY OF AN HOUR