LTS: Vũ Thị Thanh Mai
sinh trưởng trong gia đình Bắc di cư vào Nam ngay sau Điện Biên Phủ. 1954 một
thế hệ lìa quê tìm đường sống. 1979 một thế hệ khác ra đi để làm người tự do. Những
trang ký ghi lại tâm tình của lúc xuống tàu trong đợt xuất khẩu người “bán chính
thức”.
Viết cho mẹ và
Lưu-Linh Vũ
Tôi là trẻ mồ côi dắt theo ba đứa em đến Escoubet mùa hè 1979.
Người đàn ông Pháp tự giới thiệu là Bernard đón chúng tôi ở nhà ga rồi chở về
viện mồ côi. Con đường mãi lên xuống
quanh co giữa những cánh đồng xanh và những thửa ruộng bắp, nắng ngát hương cỏ
cây. Chỉ có xe chúng tôi, chiếc xe đang lăn bánh trong một bức tranh êm đềm. Tôi
chờ đợi đến nơi định cư đầu tiên với chấp nhận hơn là băn khoăn. Nguyên cuộc
hành trình đã bắt đầu và nối tiếp như vậy.
Mẹ nói gấp gáp, xe đến rồi, trời còn chưa kịp sáng. Tôi
chạy vào phòng lắc ngón tay gọi Bố ơi con đi. Đi. Tôi chỉ biết mình đi vượt
biên. Hiểu mình sẽ lên tàu ra biển. Gia tài mang trong chiếc xách tay chỉ để
phòng thân mà không phải nuôi thân. Chủ tàu không cho mang hơn, mẹ nói vậy. Mấy
chị em tôi theo chị Xuân lên xe taxi, đi cả ngày, chuyển sang xe đò rồi lại
sang phà, rồi cuốc bộ, hoàn toàn không biết trông đợi gì phía trước. Một lúc
nào đó nhập chung với một đoàn người khác. Tôi đã ngạc nhiên không hiểu tại sao
đi bán chính thức mà người lớn ra vẻ lấm lét, không biết mình nên sợ hãi gì. Nếu bán chính thức vẫn là vụng
trộm, thì chính thống phải là giả dối.
Suốt đường đi, tôi mở to mắt nhìn mỗi một hình
ảnh đi qua mà sẽ không bao giờ trở lại. Lòng tôi là những tiếc nuối cho đời sống đang đông
dần,
đến một lúc nào đó sẽ vỡ tan thành những mảnh
vụn của ký ức. Mãi đến chiều tối mới đến một căn nhà ba tầng lầu đã đầy nhóc người, chủ nhà phát thức ăn rồi chỉ
một góc để ngủ. Giấc ngủ đến rất mau, không mộng mị nhớ nhung, để khi
thức dậy còn phải tiếp tục cuộc hành trình. Tôi bây giờ chỉ còn duy
nhất một mục đích.
Nắng lên, chúng tôi theo họ ra chợ ăn sáng, nhờ tấm biểng
to ở cửa chợ mới biết mình đang ở Rạch Giá. Chợ rộng rãi và hàng quán lạ mắt so
với chợ Bến Thành khiến tôi trong chốc lát vui như được đi chơi xa. “Ăn nhiều đi,
mai mốt không có đồ ăn Việt Nam đâu”. Tôi không muốn đoán mai mốt sẽ
xảy ra chuyện gì, tương lai chưa bao giờ mù mịt hơn lúc này.
Rồi ba tầng lầu người chia
nhau rải rác đi ra trại Xay Lúa Số Ba mé bờ sông, đến một khung nhà khổng lồ chỉ có bốn bức tường
cao và mấy cái cột để chống mái. Chúng tôi bước xen giữa những tấm chiếu la liệt
người tìm chỗ trống cho mình. Bỏ xách tay xuống nền xi măng, bốn chị em khoanh
chân ngồi nhìn nhau rồi nhìn quanh. Nhiều người đến trước như đã ở đây ít nhất một
ngày, nằm võng đong đưa nghe radio, ung dung trò chuyện. Tôi đứng dậy ra ngoài tìm mua ly cà phê, ghiền
từ năm mười tuổi khi tôi thường theo bố ra tiệm phở gần nhà, bố luôn gọi hai tô
phở và hai ly cà phê sữa đá, một ly cho nhiều sữa. Dân chung quanh bày bàn trước
cửa nhà bán nước uống cho dân vượt biên. Người đàn bà tươi tắn hỏi có muốn thuê
nấu cơm ngày ba bữa. Tôi không tính xa từng ngày được, không biết chuyện gì sẽ
đến trong giờ tới. Đêm xuống tôi bắt đầu nhớ sự tiện nghi trong căn nhà của
mình, muỗi khủng khiếp không ngủ được, nằm nghe tiếng quạt xoèn xoẹt, con nít
khóc, người lớn ngáy ro ro. Trong xách tay chúng tôi chỉ có vài bộ quần áo, xấp
tiền đô, xấp tiền việt, và cây sâm nhung bố dặn lỡ khi đói khát lấy một miếng
nhỏ ngậm. Không có chuẩn bị khác, chỉ có quyết tâm vượt biên còn tất cả phó mặc
số trời. May mà chị Xuân ném qua một cái quạt giấy. Tôi rơi vào giấc ngủ với những ý nghĩ về Vũ. Tôi còn
ngồi yên sau cho Vũ đèo đi ăn kem hồ Con Rùa chiều qua. Mẹ bảo đi bất ngờ tôi không
kịp từ giã, chắc Vũ giận tôi đến chết.
Sáng tôi đi quanh quẩn gặp cô bạn cùng lớp thì ra cùng chuyến tàu.
Ngọc đi chung với ba và tata là kế mẫu trẻ bồng trên tay đứa bé chừng mấy
tháng. Tôi đã vui tưởng có bạn bè cùng chia sẻ, nhưng sau đó chỉ gặp lại Ngọc
vài lần trong sự ơ hờ. Thất vọng một chút, nhưng tôi hiểu con người có khả
năng biến đổi tùy theo môi trường.
Chiều mẹ đến nghe than muỗi, bà đón xe ra chợ mua mùng
chiếu và thức ăn ngon về mượn bếp nấu cho chúng tôi. Bữa cơm cuối, mẹ dặn đi dặn
lại, chị em đùm bọc nhau, cố gắng học hành. Sau đó, mẹ bảo tôi dắt qua Ngọc để
mẹ nhờ hai bác trông nom hộ các con. Tôi nhớ mãi không quên gương mặt buồn thảm
của mẹ khi bà tata nhìn mẹ khinh khỉnh. Tôi an ủi, “không cần đâu mẹ”. Mà thực sự tôi vẫn
chưa biết nên sợ hãi gì ở một thế giới vẫn còn vô hình, và cũng không
muốn đoán. Vẫn tin sẽ có người giữ
được lòng tốt trong số ngần ấy người.
Sáng ngày thứ ba, mấy người con của cô Đào đến, mẹ lại gửi
gấm. Nhờ vậy khi lên đảo, chị Xuân và chúng tôi được giúp đỡ tận tình.
Ngày đi, cả khung nhà khổng lồ nghẹt người đổ ra bờ sông
chờ gọi tên. Chị em tôi cầm chắc trong tay tờ khai sinh giả, đợi họ gọi mình bằng
cái tên người Hoa. Chuyến tàu chỉ một chiều, không bán vé khứ hồi, bước lên là
vinh viễn không thể quay về, là chấp nhận cướp bóc, hãm hiếp, đói khát, chìm tàu,
chấp nhận cuộc đời lưu lạc nếu may mắn sống sót. Chung quanh tôi có già trẻ lớn
bé, có những gia đình bỏ nhà cửa độn hết của cải vào người mà đi, có tan vỡ như
gia đình tôi mong đổi lấy cơ hội cho con cái. Phải sống qua những năm sau 75, chịu
đựng những cướp đoạt, áp bức khủng khiếp, sợ hãi đến đánh mất nhân cách, mới có
thể thấu hiểu sao những người như chúng tôi quyết tâm từ chối chế độ Cộng Sản bằng
mọi giá.
Đến phiên chị em tôi thì tàu trông đã đầy, vừa người vừa
đồ đạc bám quanh thành tàu, mà vẫn còn vô số người dưới bến. Trước khi vào
khoang, tôi quay lại nhìn mẹ, thấy bà đang ngóng theo, nét mặt căng thẳng cực độ.
Người ta ngồi san sát, càng lúc càng chật. Đến khi tàu muốn khởi hành, máy rồ rầm rầm
nhưng chỉ đứng chòng chành một chỗ. Nhiều tiếng kêu to, “tàu khẳm rồi! Nặng quá!
Quăng bớt đồ đi!”, lập đi lập lại, chồng át lên nhau, dần trở thành tiếng quát.
Tôi ngồi ôm xách tay, lắc lư, nhìn hững hờ, đợi người lớn giải quyết vấn đề. Giống
khi còn ở nhà. Không biết họ đã quăng đồ đạc gì nhưng chừng nửa giờ sau thì chiếc
tàu ục ịch rời bến. Không biết mẹ còn đứng đó không.
Tàu di chuyển trên sông trên nước, bán chính thức rời khỏi
Việt Nam. Không khí dịu xuống và tất cả quay lại thế ngồi ủ rũ. Tôi miên man đi ngược
thời gian, ôn lại một đời sống vừa bị cắt ngang, đẩy lùi vào quá khứ. Mấy ngày
trước thôi, tôi còn sống trong yêu mến nuông chìu của một đại gia đình, họ hàng
và bạn bè, còn bay bổng trong tình cảm tinh anh của Vũ. Mỗi sáng gặp nhau ở cổng
trường, theo nhau vào lớp học, ngồi cùng bàn, mà khi ra về vẫn quyến luyến. Buổi chiều rủ nhau rong ruổi
trên đường phố Sài Gòn, đi ăn bò viên, bò bía, bột chiên, mà tối vẫn không nỡ chia tay. Ngày
sinh nhật tôi mới hai tuần trước, Vũ tặng mười bảy đóa hồng nhung đỏ thắm, một xa
hoa bất ngờ trong thời buổi thắt chặt dần. Những đóa hồng vĩnh viễn hóa tôi
thành công chúa trong chuyện cổ tích của chúng tôi. Không hiểu vì sao Vũ lại đàn bài Ngăn Cách, tiếng dương cầm
bây giờ đưa tôi đi. Tôi đi mang theo tuổi mười sáu chứa khung trời kỷ niệm của chúng
tôi. Còn chỗ tôi ngồi cạnh Vũ trong lớp học, trên mặt bàn Vũ khắt chi chít tên
tôi, ngày mai ai sẽ ngồi.
Tàu chợt đảo nghiêng ngả, từ trên mui vọng xuống nhiều tiếng
la. “Tàu mắc cạn! Mắc cạn rồi!”.
Chiếc tàu không ngừng nghiêng ngả. “Tàu bị quay ngang! Ngồi
yên một chỗ!”
“Nước vào tàu rồi! Nước vào tàu rồi!”. Chỉ dưới hầm thôi.
May quá chị em tôi ngồi khoang trên.
“Chìm tàu rồi! Chìm tàu!”
“Quay vào bờ mau!”
Tất cả nhốn nháo, nhướng người nghểnh cổ, ai gần cửa sổ
thì ráng tìm mực nước, ai gần lỗ thông xuống hầm thì ráng xem nước vào bao
nhiêu. Chị em tôi nhướng lên cuối xuống cũng không thấy gì, mà cũng không chạy
đi đâu được. Chạy cũng chỉ đến mũi tàu là hết, không có một chiếc phao, chắc
không mấy ai
biết bơi. Mười mấy lượng vàng cho mỗi đầu người, để mua vé máy bay cũng được mươi
chuyến vừa an toàn vừa tiện nghi. Nhưng chúng tôi không có số phần đó.
Tàu lệch bệch quay vào cặp bến Trà Liên. Người ta bảo xuống
hết chờ nước lên. Nghe nói chỉ bảy trăm người đăng ký nhưng đến chín trăm người
trên tàu. Chắc công
an kiếm riêng. Khoảng đó giấc trưa trời oi bức, chen chúc giữa từng ấy thân nhiệt,
mỗi đứa lại mặc hai bộ đồ trên người, nóng vã mồ hôi. Tôi ôm cái xách tay có mấy
tờ khai sanh người Hoa, cùng các em ngơ ngáo lên bờ. Trong
đám người thểu não chung quanh tôi, ai đó bật tiếng khóc
vô vọng, như chuyện đã xảy ra nhiều lần, mỗi hy vọng đều đâm vào ngõ cụt.
Trên bờ, mẹ tôi đang vẫy gọi, bà vẫn luôn có mặt mỗi khi bố
con tôi cần, vẫn luôn giải quyết tất cả mọi vấn đề lớn bé trong nhà. Trong thâm
tâm, tôi đã chờ đợi bà xuất hiện, không phải như một phép màu mà theo thói
quen. Trên cánh tay mẹ móc bao mấy lớn đầy những ổ bánh mì thịt và cà phê, ánh mắt xót xa. Tôi chợt nghe đói khát. Mẹ kể mấy trăm
người về hết nhưng mẹ và ba người bạn buồn lo quá không nỡ về, ở lại nghe
ngóng. Vừa nghe tin tàu mắc cạn, bốn bà lập tức thuê đò chở ra. Chủ đò không chịu
chở, sợ công an bắn, mẹ phải thề sống chết sẽ gánh tất cả mọi hậu quả, trả gấp
ba bốn lần, họ mới chịu lấy mối. Ra đến nơi, mẹ dốc hết tiền túi và còn vay
thêm để mua bánh mì cà phê phân phát cho mọi người quen lạ.
Một chị bám cánh tay mẹ tôi khóc “cô ơi, cô ở lại, con sợ
quá, người nhà con về hết rồi, con không còn ai”. Chị không quen biết mẹ, chỉ
bám víu vào một tấm lòng tốt bụng. Sợ vậy mà vẫn quyết chí vượt biên. Đương
nhiên mẹ ở lại, hễ chúng tôi còn ở trên đất Việt, mẹ luôn ở quanh chị em tôi, với
chị em tôi. Cho nên tôi ngu ngơ không biết sợ trời sợ đất, nhưng tôi biết sợ một
xã hội công an, nên đã xin mẹ cho đi vượt biên. Không chỉ riêng chị và tôi, mà tất
cả những người cùng chuyến, bất chấp mọi gian khổ hiểm nguy cho cá nhân và cả
cha mẹ con cái của mình. Vì không có sợ hãi nào to hơn nỗi sợ chế độ này.
Nước dâng đã đủ, họ nhắm vậy. Chị em tôi ngồi trong
khoang nhìn qua cửa sổ trong lúc tàu rời bến. Mẹ đứng sát bờ trông theo. Nước
sông lênh láng. Mẹ tôi khóc nức nở, gương mặt đầm đìa. Tôi ôm
mãi những giọt nước mắt của mẹ ở trong lòng.
Chiều nín thở ra khỏi hải phận Việt Nam, không bị bắt lại,
chị em tôi chính thức trở thành thuyền nhân, một vai trò quá lớn chỉ có định mệnh mới cứu nổi chúng
tôi. Nhưng tôi đã không biết vậy, vẫn hoàn toàn trông cậy vào người lớn. Chung
quanh tôi, một người đàn bà tướng tá to lớn cỡ tuổi mợ tôi ôm đứa con chừng tám
tuổi; một cặp vợ chồng trẻ, chị vợ xinh đẹp ẵm em bé trên tay; còn cả khoang dẫy
đầy người lớn. Tất cả im lặng lắc lư theo con tàu, vì đời sống đã tạm ngưng,
không còn chỗ để đi, công việc để bàn, có lẽ cũng không việc oan trái gì xảy ra
trong ngày tới.
Ngoài khung cửa sổ ánh sáng yếu dần. Người đàn bà to lớn
chợt khoành chân nhích mông ép vào mé bên trái của tôi. Tôi cong như con tôm
quay sang thấy đứa bé nằm rộng rãi trên sàn gối đầu trên đùi mẹ ngủ ngon lành. Chị
vợ ngồi đối diện thấy vậy nói khẽ với ông chồng nhích qua cho tôi ngồi thẳng lại.
Mẹ cũng sẽ bênh tôi. Có lẽ bà vẫn còn đâu đó ở Rạch Giá. Có lẽ bà đang buồn đứt
ruột. Nỗi buồn bắt đầu gặm nhấm tôi.
Đêm nghe biển ru ngủ, mong trong giấc mơ mình sẽ về nhà, giả
vờ như mình đang nằm trong căn phòng riêng. Chợt cảm giác ngón tay sờ soạng tôi
giữa hai đùi. Tôi mở to mắt, mặt gã đàn ông ghê tởm trong bóng tối. Tôi chồm
sang nói vào tai chị vợ. Chị giằng cánh tay ông chồng, miệng rít khẽ “anh!”
Đêm như con tàu lắc lư hoài chẳng đến đâu. Khi mình ngủ
ngồi cứng ngắt, ra vào giữa tỉnh và mê, đêm dài vô tận. Giật mình thức giấc mấy
lần vẫn còn đêm, vẫn ngồi cứng ngắt. Tôi thấy tù túng, chật chội, bực bội, khát
nước. Nhưng quanh tôi không có nước, chỉ nghẹt người. Tôi mở túi xách mò cây sâm
nhung bố cho, nhưng đã bị ăn cắp mất. Ai lại ăn cắp ngay trên tàu. Tôi bật khóc.
Tôi hoàn toàn không muốn khóc, nhưng những tiếng nấc không chịu ở lại trong cổ
họng và nước mắt cứ trào ra. Em Chi trèo qua cửa sổ bám thành đi tìm mang về
cho tôi một ly
nước. Hú vía. May mà nó không sao.
Đi được hai ngày, tôi thèm ly cà phê sữa đá quá. Thèm nằm
dang tay dang chân, duỗi thật thẳng thật dài. Hoặc nếu được nằm co rút
thì cũng đỡ. Cả ngày chỉ trông đợi được phát vài thìa nước, vài thìa cháo. Nghe
nói chủ tàu dành lại nước uống và thức ăn cho gia đình họ. Dù gì vẫn không
thể hiểu sao chủ tàu không bớt vé, chừa chỗ chứa thêm nước để chia sẻ với
người đồng hương đồng nạn. Lênh đênh bất định trên biển, nước ngọt là sự sống. Với
số vàng khổng lồ thu được, chia với công an, đóng tàu xong, vẫn còn vô số vàng.
Cuối cùng, đám thuyền nhân chỉ là những con số trong bài tính bội thu tối đa giữa
chủ tàu và công an. Sự bất nhân mà vẫn luôn xảy ra và còn được khuyến
khích trong chế độ.
Người ta la to mừng rỡ, “Có tàu! Có tàu!”
Khoang tàu như sống bừng dậy. Chúng tôi hớn hở đứng
lên, nhốn nháo. Ai gần cửa sổ thì trợn to mắt nhìn xem tàu nước nào. Tôi
vuốt tóc sửa áo, nghe ngóng. Không ai đánh giá bề ngoài của thuyền
nhân, nhưng được chỉnh tề thì vẫn hơn.
Rồi như một con sóng cao ngút đập xuống đầu, một
giòng nước ngầm xoáy mình ra biển, âm thanh xé không gian, “Cướp! Cướp!”,
và cả khoang tàu chới với. Bên ngoài cửa sổ, tuy vẫn còn một khoảng
cách, chiếc tàu hải tặc Thái
hiện ra như thần chết.
Người ta mau mắn cởi nữ trang vàng bạc đem dấu. Tôi chỉ có hai túi áo, không còn chỗ dấu nào khác,
không muốn đoán việc gì sắp xảy ra, chờ người lớn chỉ huy.
“Đàn bà
con gái xuống hầm mau!”
Đám phụ nữ run sợ xô nhau về phía lỗ thông hầm, lục tục nhảy
xuống, gấp gáp té lăn cù. Đứng dậy nhìn quanh, nhìn tới nhìn lui, không thấy có chỗ nào để trốn. Địa ngục
từ đâu chớp ra ngay sát mũi.
“Mấy cô quỳ xuống để thanh niên ngồi lên che!”
Đám phụ nữ lúng túng bò rạp trên mặt đất ôm đầu dấu mặt. Các
ông ngồi đại trên lưng chúng tôi. Mẹ dặn đi đường nhớ niệm Nam mô Quán Thế Âm bồ
tát cứu khổ cứu nạn. Tôi cầu xin đám hải tặc không sang, nhưng tầng trên dọng
xuống những âm thanh huỳnh huỵch, tiếng gỗ đay nghiến, tiếng quát
tháo xi xô. Chỉ còn thiếu tiếng nạn nhân kêu thét dãy dụa. Tôi vẫn không
ngừng niệm, “Nam mô
Quán Thế Âm”, “Nam mô Quán Thế Âm”,trí tưởng quay về tượng Phật Bà trên bàn thờ, về căn phòng
thờ các tượng Phật, tổ tiên và bà nội. Bà nội biết tôi có lòng tin. Năm tuổi, sáng
sớm tôi đã theo bà hái hoa đại bày cúng, rồi quỳ chắp tay nghe bà tụng kinh. Tôi
luôn giữ lòng tin bà đã cho tôi. Dù tai nghe những bước chân đến gần, và thân
thể run. Dù âm thanh xi xô quát tháo dần vang sát bên. Và đám cướp Thái xuống mười
mấy tên đang đứng giữa chúng tôi.
Gã trước mặt tôi vẻ mặt bậm trợn, nước da sạm nắng của dân
đánh cá, tay khua con dao ngắn. Tôi tháo chiếc đồng hồ trên tay, chiếc đồng hồ Omega
mẹ rất thích đã cho tôi làm kỷ niệm. Tôi tháo kim tây ghim túi áo đưa luôn xấp
tiền đô, đằng nào cũng phải đưa. Trên người chỉ có vậy, câu chú niệm không ngừng,
tôi chờ gã cướp biến đi. Nhưng gã còn chưa đủ, thò tay vào áo ngực tôi sờ nắn. Tôi
nhớ hôm cô tôi đi, cô
may áo nịt ngực có chỗ nhét vừa một lượng vàng, thì
ra không còn là bí mật.
Gã quay sang em Chi, con bé vẫn tính gan lì,
nét mặt sợ hãi lẫn giận hất cánh tay muốn mò áo nó. Tôi thót
tim sợ gã đâm em tôi, nhưng gã bỏ sang người kế. Hầm tàu mấy trăm người im lặng
chịu đựng. Cả lườn tàu cũng bị soi mói rờ rẫm xem có vàng dấu bên trong. Tại
sao không ai chống cự?
Đám cướp bỏ đi rồi, chiếc tàu xác xơ, con người xốc xếch.
Tôi không nghe ai khóc lóc, có lẽ họ cũng nghĩ như tôi, may không hãm hiếp giết
người. Có lẽ đây là lý do chín trăm người để yên cho đám cướp độ hai mươi người
bóc lột. Chúng tôi chịu đựng bóc lột tàn nhẫn của
Cộng sản đã bốn năm, nhẫn nại
thêm ít lâu sẽ đến bến bờ tự do, không ai muốn bỏ mạng giữa đường.
Vậy là đã vào đến hải phận Thái Lan. Kế tiếp là Mã Lai. Tôi
leo lên bong tàu chờ thấy đất liền. Nắng buổi sáng vẫn chưa nóng mấy. Tôi hít
thở mạnh gió vào buồng phổi, nghe sự sống lan chảy trong mình. Giờ này lẽ ra đang
ngồi trong lớp học, chắc Vũ đã biết tôi không trở về hay Vũ còn chờ xem tôi có
bị lừa bị bắt lại, chắc Vũ không thể tưởng tượng tôi gặp cướp Thái Lan, chắc Vũ
đang khổ tâm, giá
Vũ đi với tôi. Nhưng tôi lại ở cao trên
biển, hiện tại đã cắt ngang như không còn dính líu đến tôi, tương lai chưa có mặt
mũi.
Người
ta la to, “Có tàu! Có tàu!”
Chiếc tàu vẫn còn xa, chưa rõ lắm. Ai cũng quay đầu trố
to mắt nhìn cùng hướng cho đến khi chiếc tàu hiện đủ rõ trong tầm nhìn. Mười mấy
gã Thái tay cầm dao dài dao ngắn hướng về chúng tôi.
Người ta la to, “Cướp! Cướp!”
Chưa nghe ai bị cướp hơn một lần, tuy nhiên những vụ đó đều
thảm khốc.
Chúng tôi bị cướp nhiều lần trong ngày hôm đó. Hẳn bọn cướp
biết tàu tôi đã bị lột nên chỉ tùy tiện khám xét. Chuyến cuối xảy ra lúc hoàng
hôn. Một chị con lai chừng hai mươi tuổi bị gã Thái xốc trên tay bế đi. Chị dãy
dụa như con cá mắc cạn, gào thét kêu cứu bằng tiếng Việt, rồi bằng tiếng Pháp. Gã
bế chị đi dọc con tàu, mấy trăm người im lặng nhìn. Một thằng nhải con nhảy ra
trước mặt tôi, cao khoảng tôi, miệng cười cười, xi xa xi xô. Đến phiên tôi gào
thét kêu cứu, chỉ theo bản năng, lúc nãy không ai cứu chị con lai. Thằng ranh con vẫn tươi cười xi xô, đưa hai ngón tay
lên ra vẻ cặp đôi, như nó muốn tôi theo nó làm cướp biển. Đầu tôi niệm Phật
Bà, mắt nhìn xuống biển, tin chết đã tới mình. Lúc này chạng vạng, nước biển xám lạnh, chìm giữa đại dương bao la sẽ rất tăm tối cô đơn,
nghĩ thương bố mẹ và ba đứa em đi cùng. Tôi không
ngừng la hét, tôi cũng có khả năng
kêu cứu bằng tiếng Pháp, nhưng cả hai ngôn ngữ đã không cứu chị
con
lai. Túng quá, tôi quay sang tàu Thái
đang cặp sát, vài người đang bận rộn, và tôi chạm vào một
đôi mắt có ý thương hại. Đôi mắt nhìn đăm đăm tôi, không rời, dù hai tay không
ngừng kéo dây thừng, gương mặt không ác. Tôi nhìn đăm đăm trả lại cùng những âm thanh van
xin hắn không cần hiểu. Nhìn cho đến khi
hắn buông dây thừng, nhảy sang, đi về chỗ tôi. Nhìn hắn nói vài câu với thằng ranh con vẫn không ngừng xi xô. Nhìn
cho đến khi cả hai bỏ đi và biết mình thoát nạn.
Đêm trên biển yên bình vì không thấy đánh cướp ban đêm.
Thêm một ngày bị cướp từ sáng đến chiều. Tàu Thái cuối
cùng đã đánh cướp ban sáng, nhận ra chúng tôi chỉ đi vòng vòng trong hải phận
Thái, nên bị cướp liên tục. Tổng cộng hình như mười một lần. Không còn gì để cướp,
cạn nước, chỉ còn xác xơ đói khát. Hai bên múa tay múa chân cho đến khi ra vẻ
thông hiểu. Tàu Thái bày ra mấy mâm cơm, vẫy mời, thấy người ta nhảy sang bốc
cơm, chị em tôi cũng nhảy theo. Nghe nói thì ra tài công không chuyên nghiệp và
không có cả la bàn, đám cướp thương hại cho la bàn, nước, và chỉ đường ra khỏi hải phận Thái. Không nhờ vậy, tàu sẽ luẩn quẩn thêm
mấy ngày và tất cả sẽ chết vì kiệt quệ. Có lẽ ngư phủ Thái làm hải tặc
run rủi. Bán chính thức. Chính phủ
Việt
Nam chính thức thu vàng, tống người. Còn
chúng tôi là những kẻ trốn chạy.
Trên hải phận quốc tế, chúng tôi gặp một tàu ngoại quốc
trắng trẻo đẹp đẽ. Mọi người nhốn nháo chồm sang. Ba của Ngọc đứng ra
nói chuyện bằng tiếng Anh với ông thuyền trưởng. Ông ta không cho chúng tôi
qua, nói sẽ kéo tàu chúng tôi vào đảo. Nhưng đi được một lúc thì họ lại cắt dây
bỏ rơi chúng tôi. Có lẽ không xin được phép cập bến. Chiếc dây thừng đứt
đoạn lê trên mặt sóng trả chúng tôi về cho quỷ thần, và chúng
tôi thu mình chịu trận chờ Trời
Phật hiển linh. Tôi nhìn dây thừng đứt đoạn như tóc mình
trôi trên mặt sóng, xoắn xít vật vả oằn oại và chìm xuống.
Biển tháng tư không có một ngày mưa, dù cũng có lúc phủ
mây.
Họ nói nước chỉ dành cho người bệnh, sắp chết.
Người ta dồn lấn vào khoang, không khí ngột ngạt, ba chị em tôi ra bong tàu, ai biết
cần trốn nắng, chỉ em Long ở lại trong khoang với anh Thành quen với mẹ.
Em Chi mệt mỏi nằm lăn ra ngủ. Con bé nước da trắng tuyết,
bình thường không ăn nắng, hai má cháy đỏ au. Ông cụ ngồi trong khoang thương
hại bảo đứa cháu bé ra đút cho nó ba thìa nước. Nó tỉnh dậy mắt nhìn ngơ
ngác. Tôi đã không biết làm gì giúp em Chi.
Em Lan ngồi im như đứa trẻ bị phạt. Tính nó nhút nhát,
nhà gọi nó là gà tồ. Cô gái bên cạnh gối đầu lên đùi nó ngủ ngon lành cả đêm,
nó vẫn ngồi không động đậy. Anh Chi con út cô Đào chui lên từ hầm, thấy tội
nghiệp, đánh thức cô ta dậy và rầy “sao nằm lên người em tôi!” Tôi cũng đã không biết làm gì
giúp em
Lan.
Tối, anh Xâm và anh Bích con cô Đào trộm được chút nước của
chủ tàu, đem cho chúng tôi.
May mà có các anh. Tôi nhận ra mình không phải
người tháo vát, không biết chăm sóc các em, luôn trông chờ vào sự sắp
đặt của người lớn. Có lẽ mẹ thương tôi cái tánh biết vâng lời, không
bao giờ để bị rầy bị phạt. Có thể mẹ nuông chìu chúng tôi không để
động móng tay vì bà mồ côi sớm, tuổi nhỏ vất vả còn bị đánh đập hành
hạ. Có lẽ bố cưng tôi vì tôi giống ông, tuy không thừa hưởng tính đảm
đang của mẹ. Chị Ba, chị Thu và cô Thân ở trong gia đình tôi mấy mươi năm, chăm sóc
anh chị em tôi như con em ruột của họ. Giờ chị em tôi tập tành làm
người lớn với trông chờ lòng trắc ẩn của người dưng.
Ngày thứ năm, một người bệnh chết, xác quăng xuống biển. Chết trong những tia hy vọng của một đời sống tự do
còn chưa kịp tắt. Xác bơ vơ, chắc hồn quay về nhà. Khi những giá trị
đời sống không còn liên quan, ai muốn xa xứ sở.
Ngày thứ sáu, chị lai Pháp mê sảng kêu khóc, gọi mẹ. Tất
cả những dồn nén vỡ ra từ cô gái vừa qua tuổi vị thành niên, trong cơ
thể đói khát nóng sốt, giữa chín trăm người thiểu não dửng dưng và
một đại dương lạnh lùng.
Cứ như vậy thì không biết còn gắng gượng được bao
lâu. Những nhớ nhung theo ký ức cạn khô. Tâm tư tôi là những khoảng trống mênh mông
trong thời gian bất động. Giữa những khoảng trống là cơn thèm khát
một ly cà phê sữa đá.
Ngày thứ bảy, chúng tôi thấy đất liền. Không cần biết
nơi này là đâu và chứa sự sống gì. Chủ tàu lên kế hoạch đợi tối đục tàu bơi vào bờ để không bị đuổi
ra. Khi ánh trăng chỉ đủ sáng để nhìn thấy bàn tay trước mặt của
mình, chúng tôi ra nhảy xuống tàu bám nhau bơi vào bờ. Cũng không sâu, nước cao chừng đến cổ tôi.
Bộ óc đơn giản của tôi nghĩ sẽ được đưa đến trại tị nạn, giống anh
cả đi chui năm ngoái đã được tạm trú trại Pulau Bidong,
có thức ăn chỗ ở và sẽ được bảo
lãnh.
Khi chân chạm cát, tôi nghe sức sống dâng tràn, cảm
giác tự do bừng lên. Chết và Cộng Sản đã sau lưng.
HẾT
PHẦN NHẬP
VTTM, Buena Park tháng 4, 2021