Tôi
biết Anh từ lâu lắm. Ở cái thuở còn bé, chưa biết mộng mơ, chưa biết văn chương
nghệ thuật là gì. Chỉ biết có sách, có chữ là đọc, là xem. Cho qua thời gian trong lúc trông coi cửa tiệm. Tôi đọc ngấu nghiến những chuyện Tàu, từ Tam Quốc
Chí đến Chung Vô Diệm… Tôi xem sách hình Tàu một cách thông thạo… Rồi quay sang
các tờ nhật báo, tuần báo… Đọc không sót chữ nào, từ trang tin tức bên ngoài, tới
tin rao vặt cũng không chừa… Tôi dần đi vào thế giới văn thơ.
Tôi
đọc bài văn, tôi thưởng thức bài thơ bằng thái độ an nhiên, không rộn ràng như
khi vừa giải xong một bài toán khó, hoặc cố tìm hay nghiên cứu một cách giải ngắn
gọn hơn, khoa học hơn. Vậy mà, thơ Anh, chuyện Anh đã làm tôi bồi hồi. Lúc đó
tôi không sao giải thích được. Chỉ biết ở đấy có một tâm tình đồng cảm, một chất
sống ray rứt, một nội tâm phong phú, đang muốn bứt xé, tuôn tràn…Tôi biết Hoài
Ziang Duy dù chưa một lần biết mặt Anh.
Tôi
đã gặp Anh, trong buổi tiệc văn nghệ, báo chí của trường. Tôi có chút không
vui. Hoài Ziang Duy trong tôi không là Anh, người con trai trước mặt. Khuôn mặt
thật sáng với nụ cười tự tin, trang phục tươm tất, chiếc đồng tiền trên má tạo
nét trẻ thơ, mà tôi không thấy trong văn thơ Anh. Ở đó có trái tim uất nghẹn
sao? Ở đó có sự cô đơn, cần người chia sẻ sao? Tôi thật sự không cảm nhận được
những điều ấy trên nhân dáng Anh lúc bấy giờ.
Và rồi
chúng tôi quen nhau qua những cánh thư văn nghệ. Bàn chuyện văn chương, trao đổi
sách báo mới xuất bản, tôi tập tành làm thơ tình dưới sự khuyến khích của Anh.
Tình cảm thật trong sáng giữa chúng tôi. Sau đó, tôi biết về Anh nhiều hơn,
hoàn cảnh gia đình và cuộc sống hiện tại, đã kéo chúng tôi lại gần nhau.
Mẹ mất khi Anh vừa lên sáu. Ba đi dạy, ở vậy với đàn con. Người chị duy nhất theo nghiệp
cha và nuôi lớn hai đứa em nhỏ, chưa nghĩ đến phận mình. Mấy anh trai lần lượt vào đời với cuộc sống riêng. Anh lớn lên trong sự bảo bọc của ba, của chị mình.
Anh trưởng thành, cũng là lúc người chị vu quy, mức lương hưu của ba không thể
nuôi Anh vào đại học. Anh đã dùng tiền nhuận bút, để tự sắm cho mình bộ đồng phục
đi học (chỉ có một bộ, nên phải giặt ủi kịp thời, để không bị phạt) Anh luôn
trang bị cho mình một phong thái đủ đầy, từ tinh thần đến vật chất, để lấp đầy
tự ái cá nhân, để ba không buồn, để chị được vui. Nhưng bên trong Anh, là nỗi
khát khao có được sự bình yên, vượt thoát cõi tối tăm, cô đơn buồn nản. Và Anh
đã đưa hết vào văn thơ.
Trong
tâm thức Anh, ba là người cha tuyệt vời. Hình ảnh người cha bàng bạc trong chuyện.
Từ “Bên Trường Giác Đấu” với cảnh người cha đi nuôi con bị thương mất cả hai
chân:”Con hãy sống cùng ba. Đời ba bây giờ chỉ có mình con, ba sẽ đẩy con đi
chơi. Buổi chiều, buổi sáng con vẫn thấy mặt trời, vẫn thấy cuộc
đời mà…” Đến “Ông Tướng Sang Sông” với việc bốc mộ cho cha (trang 74-76) Hoặc
trong “Đâu Cõi Đi Về” Hay qua “Đám Tang Chữ Nghĩa”
Hình
ảnh người đàn bà trong văn thơ Anh thật nhiều. Đậm nét nhất là sự dịu hiền của
người Mẹ. Anh mất Mẹ khi còn rất nhỏ, nhưng Anh vẫn nhớ hoài sự yêu thương của
Mẹ dành cho mình. Anh không nhớ mặt Mẹ từng đường nét, nhưng bút mực Anh đã vẽ
lên từng khuôn mặt Mẹ dịu dàng. Qua hầu hết những chuyện Anh đều có Mẹ, có Dì,
có Chị. Như trong Cánh Lá Ưu phiền, Chị, Nghe Những Tự Tình…
Lời
thơ Anh mượt mà, câu văn Anh trau chuốt. Anh dùng chữ rất bén và ý nghĩa.
Anh
làm ai kia thao thức bởi:
Buổi
nay em không đến làm anh cô đơn
Mây
bay đi có những lúc buồn
Nói
khẽ, bây giờ nhớ bé quá
Phải
làm sao cho con mắt nhẹ cười…
(Chuyện
kể - Lá tình thư)
Anh
cũng đã làm rơi bao nhiêu nước mắt của nhiều người, khi nghe con trẻ đọc bài:
Buồn
trông con nhện giăng tơ
Mà
thương người cũ đợi chờ bao năm
Là
sâu kín nỗi âm thầm
Bước
hành lang gõ giọng trầm chân khua…
(Ca
Dao)
Và
cũng khúc khích cười vì Anh:
Cười
em, em như thỏ
Dũi
trốn nhìn bóng nhau
Chờ
trăng tình mới tỏ
Cũng
xế lòng anh đau…
(Chào
em con chim nhỏ)
Hay
ganh tỵ với “Tình nhân xưa”
Ta sống
xứ người câu thăm hỏi
Châu
Đốc có còn thơ ấu xưa
Có
đem theo gió Cầu Quan gọi
Tĩnh
lặng Bồ Đề cội giấc trưa
(Bài
Tình Nhân Xưa)
Để rồi
vẫn là nỗi nhớ:
Sáng
thức dậy
Đứng
lên từ quá khứ
Chỗ
em nằm là chỗ trống đời ta
Chiều
hôm qua nắng tìm chim bỏ xứ
Trong
mắt em
Giọt
nước đọng bên nhà
(Thương
Lấy Đời Nhau)
Anh
khó tánh và nguyên tắc, nhất là trong văn chương chữ nghĩa. Anh không thích câu
“viết chơi” "làm chơi” mà Anh luôn khẳng định việc mình làm, mình viết là “thiệt”
là đúng. Nếu không biết nhiều, người ta sẽ cho Anh là tự cao, tự phụ, nhưng nếu
biết đoạn đường làm việc của Anh, từng bài thơ, từng đoản văn Anh dệt thành,
thì cảm giác trên không còn nữa.
Anh
yêu việc viết lách hơn mọi thứ trên đời. Ngày còn đi học, Anh có khiếu về Y Dược,
chỉ cần nhìn qua viên thuốc, đọc các dược liệu… là Anh nhớ mãi. Nhưng Anh biết
hoàn cảnh gia đình, nên chỉ ghi danh học Luật. Rồi tổng động viên. Khi ra trường
Thủ Đức, vào chiến trường hiểm nguy, Anh vẫn viết. Khi đi tù cải tạo, Anh vẫn
làm những bài thơ, tâm hồn Anh vẫn hoài rung động trước mọi thứ, kể cả khi thân
xác đã hao mòn. Anh đã sử dụng châm cứu trong ngục tù, để cứu giúp bạn bè chung
cùng cảnh ngộ. Khi về, Anh tiếp tục…Cứ ngỡ Anh sẽ quên đi việc viết lách, nào
ngờ khi sang được Mỹ, Bob Johnson (người được Anh châm cứu trị hết bệnh tuyến
tiền liệt) đã tìm cách bảo trợ Anh đi học lại, nhưng Anh từ chối. Và trở lại
làm nghề mình yêu thích: Viết văn, làm thơ.
Viết
Văn, đối với Anh không khó, bởi trong môi trường sống, Anh luôn tích tụ trong đầu,
những hình ảnh đặc trưng để làm tư liệu khi cần. Anh có thói quen đặt tựa bài
trước (tựa bài Anh luôn là niềm hãnh diện trong tôi, vì lạ và rất hay) Anh ngồi
trước máy, gõ nhẹ, xuyên suốt, thời gian không kịp trôi theo từng con chữ,
không gian như ngưng đọng theo Anh…Anh ít nói, ít bạn bè, nên mọi thứ Anh dành
hết cho các nhân vật của mình. Anh vào vai chính, thủ luôn vai phụ. Lời nói, biểu
cảm khi dịu dàng lúc cộc lốc, có cả câu chửi thề, nói tục. Anh phân hoá từng
vai một, rất xuất thần, cho mỗi vai một nhiệm vụ để cưu mang, bộc bạch những gì
Anh mong ước. Viết xong, in ra và đọc lại. Bôi đi xoá lại cho hoàn chỉnh theo ý
mình. Và tôi vẫn là người xem đầu tiên. Anh lắng nghe lời tôi góp ý, ban đầu
còn nhân nhượng, càng về sau càng quyết liệt, bảo vệ ý mình và cuối cùng vui vẻ
với nhau bên đứa con tinh thần mới.
Ngược
lại, khi làm thơ Anh rất thoải mái, chỉ thoáng chút là xong. Ở thơ, Anh không cần
sống cho ai, cho lý tưởng gì. Chỉ cho Anh, một mình Anh thôi. Trong Anh, thơ nhạc
vốn là một, thơ tuôn ra với âm sắc lên xuống tự nhiên, hoà quyện cùng nhau, một
cách thuần thục. Nhưng chưa đủ, thời gian kế mới là đáng nể, Anh trau chuốt lại
từng ngôn từ, so sánh lại từng giai điệu…Nên thơ Anh rất đặc biệt, trong thanh
có sắc, trong buồn có chút hy vọng.
Với
tôi, cả thơ lẫn văn Hoài Ziang Duy đã chinh phục trái tim nầy. Anh đã đặt vào
đó tất cả tâm huyết mình, những suy tư, những dằn vặt không mở nổi. Để rồi, người
đọc tự tìm một câu trả lời cho riêng mình, không ai giống ai.
Riêng
tôi, cho đến bây giờ vẫn còn câu thắc mắc: Không biết có phải mối tình đầu quá
êm đẹp, một hạnh phúc đến thật gọn nhẹ, không cần phải tranh đấu, đã làm Anh thật
yên bình, không cần nghĩ suy nữa. Và tôi đã không tìm thấy mình trong những tác
phẩm của Anh ???
Phương Thảo Huyền
Virginia, tháng 5/2022