NGUYỄN MINH NỮU
HOÀI ZIANG DUY,
TỪ RỪNG AN
LỘC
ĐẾN NÚI ĐỒI VIRGINIA
Hoài Ziang Duy định cư ở Mỹ
năm 1991 sau bảy năm đi lính, bốn lần bị thương và sáu năm tù cải tạo. Khi tinh
thần ổn định anh cầm bút trở lại và cộng tác bài vở với các tạp chí Văn Học, Hợp
Lưu… và tham gia một tuyển tập của Văn Bút Miền Đông năm 1996. Tới năm 1999 mới
xuất bản tập truyện đầu tay Ông Tướng Sang Sông.
Tôi quen anh trong giai đoạn
này, giai đoạn anh chuẩn bị phát hành tập truyện đầu tay. Anh hay ngồi với một
người bạn trong Văn Bút tại quán cà phê
Nguyễn Gia Định trong khu thương mại Eden. Dường như đó là lúc Văn Bút Việt Nam
Hải Ngoại đang phân hóa cùng cực giữa hai phe Viên Linh ở miền tây và Sơn Tùng ở
miền đông thành hai ban chấp hành Văn Bút Việt Nam. Sau đó, Văn Bút Quốc Tế đã
dàn xếp để cả hai cùng rút lui, một ban chấp hành khác thành lập với chủ tịch
là nhà văn Minh Đức Hoài Trinh. Có lẽ chính cuộc đấu đá giữa hai bên trong Văn
Bút, khiến một người mới định cư ở Mỹ như tôi có cái nhìn e ngại với những người
trong cuộc.
Giang Hữu Tuyên đưa tôi tập
truyện và thư mời buổi ra mắt sách. Hoài Ziang Duy đã khéo léo bước ra khỏi cuộc
tranh chấp của Văn Bút khi buổi ra mắt sách được giao cho Hội Đồng Hương Châu Đốc
tổ chức.
Tập truyện có cái tên rất gợi
hình “Ông Tướng Sang Sông”. Chưa kịp đọc tập truyện, chúng ta đã lập tức bị cuốn
hút bởi cái tâm trạng xót xa, buồn nản, bi thảm và tuyệt vọng của một thế đứng
chông chênh, một con đường đi mà không có đích đến mà cũng không có lối quay về.
Tập truyện do Xuân Vũ viết lời giới thiệu. Xuân Vũ là tác giả tập hồi ký “Đường
Đi Không Đến” càng khiến tôi đinh ninh đây sẽ là tập truyện về những người lính chiến đấu đơn lẻ và vô vọng từ một cuộc chiến bị phản bội hồi năm
năm về trước.
Nhưng không phải vậy, “Ông
Tướng Sang Sông” nói về một một cuộc chiến khác, khốc liệt và bi thảm, thầm lặng
nhưng không kém xót xa là chính trong nội
tâm của con người. Sẽ đề cập tới tập truyện này trong phần sau.
Hoài Ziang Duy tên thật là
Thái Sanh Lợi, sinh năm 1948 tại Châu Đốc, nhập ngũ năm 1968 học tại Trường Bộ
Binh Thủ Đức, ra trường, là một sĩ quan tác chiến thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Khi mang cấp bậc Trung Úy, và nắm chức vụ đại đội trưởng,
Hoài Ziang Duy đã là một mũi tiền phương dẫn quân vào giải tỏa thị xã An Lộc,
thuộc tỉnh Bình Long. Trận đánh khốc liệt và bi tráng đó in dấu rất sâu trong
ký ức của anh, những khu rừng xanh đất đỏ của miền đông, những mẫu người dân hiền
hòa chịu đựng bom đan chiến tranh và cả
những đồng đội bên nhau mà đa phần đã đến nơi đây nhưng không thể trở về. Bút ký Chia Nửa Vầng Trăng của Hoài Ziang Duy là một bút
ký chiến tranh viết về mặt trận An Lộc vào mùa hè đỏ lửa 1972 rất chân thật,
xúc động và xuất sắc.
Cầm bút và kiếm sống bằng
ngòi bút từ thời rất trẻ. Trong lần trả lời phỏng vấn của Lương Thư Trung, Hoài
Ziang Duy tâm sự:
“Những
người viết văn làm thơ sớm, là mang khổ lụy vào thân. Kể ra khoảng thời niên
thiếu học trung học, tôi đã viết truyện để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống của bản
thân mình, nhiều hơn là lo học. Cũng may là đường khoa cử cũng trơn tru. Hồi đó
mỗi lần một truyện đăng báo, được trả 300 đồng (Thời giá may một cái quần
tây vải Dacron là 300, một cái đồng hồ hiệu Telda, hay Luran là 350 đồng). Đăng
ở nhật báo Tia Sáng, Ngày Mới, Dân Ta, Dân Tiến, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Sống,
Sóng Thần, Đời, và các tạp chí văn học… Năm học lớp Đệ Nhị, tôi được giới
thiệu thơ và tác giả trên đài phát thanh Sài Gòn (Chương trình Tuần báo Nghệ
thuật Truyền Thanh). Sau này đi lính thì chỉ còn có thì giờ viết cho các tạp
chí. Tôi thường xuyên viết cho tạp chí Trình Bầy của Thế Nguyên. Đời sống tôi rất
cô độc (con út trong một gia đình, mất mẹ lúc lên 5, 6 tuổi). Sống ở đơn vị mà
chỉ viết báo ngoài để lãnh tiền, khi về Sài Gòn thì ghé qua lấy.”
Sống được bằng nhuận bút từ
khi còn đang là học sinh trung học là một điều hiếm hoi và kỳ lạ vào cái thời
mà chúng tôi lớn lên. Cầm bút từ năm
1965, khi vừa 17 tuổi, Tính tới thời điểm hiện tại, Hoài Ziang Duy xuất bản được
5 tác phẩm gồm:
- - Ông Tướng Sang Sông. Truyện, 1999
- - Lối Đi Dưới Lá Đời Thà Như Mưa. Thơ, 2007
- - Bốn Ngàn Năm Chen Lấn. Truyện, 2010
- - Những Bài Thơ Tháng Tư. CD ngâm
thơ, 2014.
- - Còn Không Chốn Quay Về. Tự Truyện, 2017
- - Đứng Tựa Bên Đời, Thơ. 2019.
Giữa thơ và văn, Hoài Ziang
Duy tự nhận định mình thích làm thơ hơn, anh đã tâm sự:
“ Còn thơ tôi, những
lãng mạn, nồng nàn thiết tha như anh thấy trong nhận xét. Quả tình tôi cũng yếu
đuối sống thật với chính mình qua những bài thơ. Khác với thực tế sống bên
ngoài, đời sống tôi chừng mực, trật tự, không có lối buông thả, rượu chè (có lẽ
vì vậy mà tôi ít có bạn bè, ít hình tượng làm dáng của một văn nghệ sĩ). Tôi vẫn
thích làm thơ hơn, bởi nó trang trải những cảm nghĩ rung động kịp thời, hơn là
một bài văn đòi hỏi sự chuẩn bị sống cho nhân vật, không phải sống thật với
mình.”
Có một số bài của Hoài Ziang
Duy lênh đênh nỗi nhớ, mang mang tiếng vọng một quê nhà:
“Đường hẹp quê nhà ta bắt nhớ
Cuộc đời ai hát nhịp cầu tre
Hôm nay đường rộng quan san bước
Then cài ai khép đứng ngoài khe”
(Đã lỡ cơn đau ngày bóng xế, LDDL
trang 15)
Hay nói về những chuyến khởi hành mà không cần đích đến:
“Đi di tản là đi tản mạn
Hành trang mang chỉ một chữ đi
Ngó thấy không gian ngồi phía trước
Sao trời chung mệnh chiếu Thiên di
Đi bỏ nước ca câu mất nước
Lễ nghĩa xưa quân tử gánh gồng
Trứng trăm con nở tràn bọt nước
Mới hay sĩ khí thổi ngoài sông”
(Đi, LDDL trang 25).
Thơ hay, nhiều chất trữ
tình, thiết tha nhưng có lẽ tâm huyết của Hoài Ziang Duy lại là phần Văn. Ở đó,
Ông tạo hình nhân vật, xây dựng tình huống và thể hiện văn phong biệt dị tạo ra
những tác phẩm có bản sắc rất riêng.
Thí dụ như tập truyện “Ông
Tướng Sang Sông”, nhà văn Xuân Vũ viết trong lời giới thiệu đầu cuốn sách: “ Lối viết của Hoài Ziang Duy là một lối viết
lạ kỳ, không giống ai, hoặc tôi chưa từng thấy giống ai trong nghệ thuật viết
truyện ngắn. Cái lạ kỳ nầy có hai nhánh. Lạ kỳ quái gở và lạ kỳ nghệ thuật. Truyện
cùa Hoài Ziang Duy nằm ở nhánh thứ hai .”
Ông Tướng Sang Sông là tập gồm
11 truyện ngắn, với tựa của Xuân Vũ, bạt của Phạm Thăng. Cảm giác đầu tiên khi
đọc tập truyện này là không có địa danh xẩy ra, không có thời điểm xẩy ra, không
có nhân vật chủ chốt, không có những biến chuyển kịch tính và cũng không phải là một đoạn văn êm êm nhẹ nhàng. Thực ra những biến động trong chuyện đều khởi từ
tâm tư suy nghĩ của các nhận vật trong truyện kết nối với nhau bằng những câu
trao đổi ngắn để mô tả diễn tiến câu chuyện.
11 truyện đó, qua đối thoại
nhân vật, chúng ta hiểu được những chuyện viết giữa chiến tranh như: Cành Lá
Ưu Phiền, Bên Trường Giác Đấu, Mù Sương Cũng Biết Mơ. Có những truyện viết về
thời điểm sau khi chiến tranh chấm dứt, ghi những hậu chấn cuộc đời người chiến
bại khi còn ở Việt Nam như Trời Như Nhỏ Lại, Ông Tướng Sang Sông, Mỗi Ngày Mỗi
Xa, và những truyện viết khi thời gian là ở Mỹ, không gian là ở Mỹ nhưng tâm tư
vẫn là những vệt đen ám ảnh mang theo đất
nước xa vời như: Người Chôn Ký Ức, Đâu Cõi Đi Về, Đám Tang Chữ Nghĩa… Là 11
truyện với các góc thấy khác nhau, nhưng sẽ nhận thấy rất rõ ba điều:
1/ Có một xuyên suốt chung với
nhau là cái ám ảnh bi thảm của chiến tranh mà tác giả đã trải qua theo tôi nghĩ
là những cánh rừng đẫm máu của thị trấn An Lộc năm 1972, trận chiến mà tác giả
đích thân tham dự. ám ảnh đó, tâm trạng đó kéo dài từ truyện đầu đến truyện cuối,
kéo từ An Lộc máu đổ thịt rơi đạn bom gầm rú cho tới cảnh sống nhẹ nhàng, đon giản giữa núi đồi
Virginia ở những truyện cuối cùng.
2/ Những đối thoại mông
lung, hời hợt, hờ hững và có vẻ như vô tình với nhau trong truyện lại là những
điển hình rất sát với thái độ buồn thảm và chán nản tới độ chẳng muốn nói ra của
các nhân vật như những cái bóng xuất hiện trong chớp mắt rồi mất tích giữa màn
đêm.
3/ Tất cả các truyện hầu như
không thể tóm lược cốt truyện, Tôi nghĩ đây là một cố ý của tác giả, Ông đã đưa
vào truyện cái nghĩ của nhân vật, của
nhiều nhân vật. Những tình tiết xẩy ra
như những con rối trong Đèn Kéo Quân, chập chờn hiện ra và bắt độc giả phải hóa thân vào truyện , nhập
vai bất kỳ nhân vật nào để tự tìm cái kết luận riêng mình.
Truyện chính được lấy
làm tên cho toàn tập là truyện “Ông Tướng Sang Sông”. Trong truyện không có ông
Tướng nào, cũng chẳng có sông nào, truyện kể về một người đàn ông (chắc vừa được
tha từ tù cải tạo) về bốc mộ cha dưới quê
đem về thành phố (Có lẽ để an vị đâu đó trước khi đi xa). Trên chuyến xe
khách về lại thành phố, anh ta ngồi cạnh một cô gái xinh đẹp buôn thuốc lá lậu,
khi gặp trạm kiểm soát, cô ta tạm mượn anh làm chồng để tránh khám xét. Khi cô
gái xuống xe tại khu vực qua phà, cô ta mời anh vào nhà cũng là quán của cô ta
tạm nghỉ ngoài sân chờ tới sáng qua phà. Ở đó anh ta gặp anh ruột cô gái, cũng
là lính chế độ cũ, là thương phế binh, đang hành nghề bán thuốc nam trị bệnh thận
(cũng là thuốc lậu và lại là thuốc giả luôn). Vài câu chuyện vô thưởng vô phạt
và chia tay. (Những dòng chữ trong ngoặc là những cái tôi đoán)
Vậy thì cái ý của câu truyện
này là gì? Chắc mỗi người sẽ có một nhận định riêng. Còn riêng tôi, chính cái tựa
câu chuyện là ý chính, cảm giác rã rời, vô định, và buông thả bỏ mặc cuộc đời
trôi nổi bởi vì con chốt qua sống là con chốt thí, huống hồ Ông Tướng vốn không
thể ra khỏi bốn ô vuông của một bàn cờ, mà nay phải đẩy ra thế sang sông thì chỉ
là cái xác không hồn.
Nhưng tôi lại tìm thấy câu trả lời cho truyện đó, hay khác hơn cả tập
tuyện đó, trong đoạn kết của câu truyện cuối cùng: Đám Tang Chữ Nghĩa. Đoạn kết
truyện đó như sau:
“Ông nói tôi mang dùm ông
tất cả sách báo ra trước hiên nhà. Cầm lấy diêm quẹt trong tay. Bàn tay ông run
run, cúi xuống châm lấy mồi lửa. Lúc này đây, tôi thấy đau lòng quá, không thể
một phút hủy đi cả một đời sống
riêng tư dằn vặt. Tôi muốn ngăn lại, muốn duy trì sự tồn tại đã có từ trước.
Nhưng ông bảo:
_ Không cần thiết nữa
con ạ.
Ánh lửa bốc lên, càng
lúc càng lên cao, ông vẫn ngồi đó. Trên chiếc xe lăn, giọt nước mắt chảy đi
trên đôi má già nua. Ông vẫn sống, sống sừng sững bằng thân phận chính mình.
Nhưng với tôi. Lúc này
ông đã chết. Một cái chết thật dịu dàng.”
Để
kết luận bài viết lan man về Hoài Ziang Duy này, xin trích lại một đoạn bài trả
lời phỏng vấn của anh với Lương Thư Trung (Tạp Chí Da Màu) trong đó khi nhắc đến
một truyện ngắn đắc ý của anh, sau đó được dùng để làm tựa đề chung một tập
truyện: “Bốn Ngàn Năm Chen Lấn”. Câu trả lời của anh ghi một kỷ niệm với người
viết bài này:
“Thưa anh, thường thì trong một tập
truyện, sẽ lấy một câu chuyện cho là ưng ý nhất để làm tựa sách. Với tôi không
hẳn là vậy, dù truyện BNNCL đầy đủ hình ảnh cuộc sống mới lạ của người dân hai
miền, sau ngày mất miền Nam, và nối tiếp thực tế một đời sống thực của người trẻ,
người già trên xứ người. Truyện hợp với tâm tư tình cảm tôi lại là truyện Nhân
gian một chỗ, một thời ấu thơ của tôi, và hình ảnh ba tôi ngồi trên cái bục xi măng trước nhà đợi chờ con đi tù về, là một ám ảnh khôn
nguôi.
Nhân nhắc đến cái tựa truyện Bốn Ngàn
Năm Chen Lấn, tôi kể anh nghe chuyện nầy. Cách đây mấy năm trước, (khoảng năm
1998) tuần báo Văn Nghệ (số 2, số 3 gì đó), ở tiểu bang Virginia có xin bài
truyện nầy đăng báo. Cũng tuần đó, một tờ báo trong vùng này cho đăng một thư
nói là thư độc giả (viết tay, nhưng nặc danh không ghi tên, địa chỉ), kêu gọi tẩy
chay tờ báo Văn Nghệ (của Nguyễn Minh Nữu) vì đăng bài truyện tựạ này (nhưng
không nói tên tác giả HZD) cho là bôi bác cộng đồng vì có đoạn đề cập đến chuyện
ca sĩ VN sang hát, con thì đi coi ở trong, cha thì ở ngoài biểu tình, và đưa
tên ca sĩ (trong truyện tên Thu) là trùng hợp với tên ca sĩ thứ thiệt.
Tuần sau đó tờ báo Văn Nghệ lên tiếng
cho biết là truyện ngắn này đã đăng trên tạp chí Văn Học ở Cali cách đây một
năm (bây giờ báo Văn Nghệ đăng lại). Như
vậy rõ ràng là nội dung hư cấu viết trước đây một năm lại trùng hợp với sự kiện
nầy, một năm sau. Như anh thấy đó, chỉ một cái tựa tức cười và nội dung gây ra
chuyện, thì thôi chi bằng lấy nó làm tên bìa sách cũng đáng phải không?
Những ngày này Hoài Ziang Duy đang nằm bệnh, đang dược chăm sóc trong vòng tay yêu thương của người bạn đời Đỗ Bình (bút hiệu Phương Thảo Huyền) và 2 người con gái của anh, Thái Thảo Uyên và Thái Đông Phương.
Tôi
và Phạm Cao Hoàng vừa đến thăm anh. Về nhà, tìm trong kệ sách đọc lại một số
tác phẩm tiêu biểu của anh. Yêu thương văn tài và trân quý những điều anh ấp ủ.
Vừa đúng 50 năm trôi qua từ khi Trung Úy Thái Sanh Lợi , dẫn đại đội anh dũng vượt bom đạn đi vào vùng đất Bình
Long giải tỏa cho thị trấn An Lộc, cho tới ngày nay, dù sống an vui với sự chăm
sóc tận tình của vợ con giữa núi đồi Virginia, lòng anh vẫn còn cánh cánh như
câu thơ anh viết xuống:
-“Biết
về đâu gọi hồn người năm cũ
Máu
xương hề đàn dạo khúc bi thương
Mấy
mươi năm một kiếp đoạn trường
Sao
vơi được nỗi buồn đau ấp ủ.
(Hình
Như Có Điều Không Thể - Thơ HZD).
Xin
gửi tới anh một lời chúc an lành.
NGUYỄN
MINH NỮU.
May 23, 2022