Có người bảo ta
ngu
Không thèm ăn
thóc nhà Chu
Bỏ về quê ăn cỏ
Có kẻ khoái ta
ương gàn càn rỡ
Dám chê rượu
nhà Tần
Thứ rượu cung
đình của phường hiển vinh quý tộc
Tuổi mới ba
mươi
Có ai ngờ ta
uống hèn nuốt nhục
Lấy giẻ rách
che tai
Cắm chông gai
rào miệng
Nhặt nhạnh gia
tư ít đồ tế nhuyễn
Trèo lên xe
trâu
Lui về quê
kiểng
Mài răng gặm
nhấm cái thanh bần
Lượm lặt nứa
tre che căn lều nhỏ
Phên cửa phong phanh suốt ngày no gió
Người quen tâng bốc gọi mao lư
Kẻ nôm na kêu đích danh nhà cỏ
Chẳng hay ho gì cỏ với mao
Thời bất lợi voi đành làm chó
Phong tống thời lai giun đất hóa rồng
Góp nhặt chợ trời đầy hai túi chữ
Túi đựng thánh hiền kê đầu giường ngủ
Túi đựng tầm phào
Lộn tùng phèo phàm phu tục tử
Thoải mái gác chân
Lựa trong gia tài một mớ phong vân
Đem ra chợ chiều rêu rao thanh sắc
Tội cô láng giềng thật thà nháy mắt
Khổ chị góa chồng mời mọc môn khoai
Tìm trong gia phong mấy lời răn dạy
Hiểu đâu nhất thời
Đâu là vạn đại
Than ôi !
Cái khôn mới hôm qu
Hôm nay bỗng trở thành cái dại
Quay lưng với đời ư ?
Dòng đời cuồn cuộN
Biển đời lợn cợn
Bảy đục ba trong
Quay mặt với người ư ?
Mặt người sắc nhọn
Biển người sao mà ghê rợn
Đua chen hôi lợi bòn danh
Đâu dám ví mình với Đào Uyên Minh (*)
Tụng Quy khứ lai từ
Cứ ngỡ chính mình đang u hoài cảm thán
Ngộ dĩ vãng chi bất khả gián
Tri lai dã chi khả truy (**)
Hề ! Mời quá khứ nâng ly
Hề ! Mời vị lai so đũa
Ta như kẻ lỡ thời
Giỏi giang gì mà tri với ngộ
Chỉ biết hôm nay giày rơm áo cỏ
Vinh danh quân tử cố cùng ! (***)
*
Ba mươi năm bổng bồng bông…
Ngơ ngác quay về gia hương cố thổ
Lá tre lợp dày
mái cỏ
Bão giông quằn
quại mao lư
Bao nhiêu năm
ta vẫn còn ngu
Sáu mươi tuổi
chắc gì không càn rỡ
Dẫu đọc hết một
trăm bồ chữ
Vẫn thua đau
một đứa lòn trôn
Đứng giữa chợ
chiều sao nhớ chị khoai môn
Bỗng thương năm
xưa cô láng giềng thuần phác
Lướt thướt mây
trôi
Dập dờn tóc bạc
Một mình ta !
Như bóng ma nhô
lên từ đêm thiên cổ
Một mình ta lơ
ngơ chôn nỗi niềm ly gia biệt thổ
Nền nhà xưa mọc lên nấm mộ
Chữ đề bia tức tưởi tím bầm :
tháng 11 - 2005
PHẠM NGỌC LƯ
(*) ĐÀO TIỂM (365 – 427) tự UYÊN MINH người đời
Đông Tấn, Trung Hoa. Ông làm huyện lệnh ở Bành Trạch, chán cảnh lòn cúi quan
trường, than thở “ta đâu phải chỉ vì 5 đấu gạo (tức lương bổng) mà phải khom
lưng ư ?”, bèn trả áo mão cho triều đình, lui về quê ẩn cư, viết bài Quy khứ
lai từ để bày tỏ chí hướng. Người đương thời rất ngưỡng mộ sự cao khiết của
ông, tặng ông danh hiệu Tĩnh Tiết Tiên sinh.
(**) Hai câu nầy trích trong Quy khứ lai từ. Nghĩa : nhận ra
chuyện dĩ vãng là không thể ngăn lại được, biết việc tương lai thì có thể đuổi
theo.
(***) Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng nhi lạm hỷ !
(Khổng Tử -
sách Luận Ngữ)
Người quân tử cố chịu đựng với sự khốn cùng; kẻ tiểu nhân gặp khốn cùng thì làm điều tham lạm