William Somerset Maugham
(1874-1965)
Văn sĩ Anh, sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch. Một trong vài tác giả lãnh tiền nhuận bút cao nhất trong thập niên 1930.
Được bầu chọn là một trong những nhà văn viết
truyện ngắn hay nhất lúc đương thời.
“Tất cả những phản bội
đều có khả năng mang lại
những thành công tốt đẹp hơn.”
Lời người dịch.
ÔNG TỪ
(Tên gọi người phục vụ
như quản gia nhà thờ.)
Chiều hôm đó, có lễ rửa tội tại công trường
St. Neville. Albert Edward Foreman vẫn mặc chiếc áo trùm cũ. Ông cất chiếc áo mới
có những nếp gấp đều đặn và cứng tưởng như không phải dệt bằng lông alpaca mà bằng
đồng lâu năm. Áo dùng cho đám tang và đám cưới. (Nhà thờ St. Peter ở Neville là
nơi được giới thời trang yêu chuộng trong những buổi lễ như thế này) Hôm nay,
ông chỉ mặc chiếc áo đẹp thứ hai nhưng rất thỏa mãn vì nó là biểu tượng cao quý
cho chức vụ của ông. Khi cởi ra, đi về, không còn áo trùm, ông cảm giác bối rối,
tưởng chừng không mặc đủ y phục. Ông vất vả vì chiếc áo, hấp ướt rồi ủi cho thật
thẳng. Trong 16 năm trời làm ông từ ở nhà thờ này, đã kế thừa rất nhiều áo
trùm, nhưng không thể nào vứt bỏ chúng dù đã sờn rách. Cả chồng áo cũ, gói gọn
gàng bằng giấy nâu, nằm sắp hàng tề chỉnh trong ngăn kéo cuối cùng của tủ quần
áo trong phòng ngủ.
Ông lặng lẽ bận rộn, thay tấm che bằng gỗ sơn
trên vách đá cẩm thạch phía trước, bưng chiếc ghế để dành cho bà lão ốm yếu, sắp
qua một bên. Chờ cha sở thay xong áo trong phòng lễ phục để ông có thể dọn dẹp
trong đó trước khi trở về nhà. Hiện thời, ông thấy cha đi ngang qua nhà thánh,
cúi đầu trước bàn thờ cao, rồi bước xuống lối đi, nhưng vẫn còn mặc áo lễ.
Ông tự hỏi. “Không biết cha đang bực mình
chuyện gì đây? Chắc cha không biết mình muốn về nhà nhâm nhi uống trà?”
Cha sở này mới được bổ nhiệm. Có khuôn mặt đỏ
bừng, sinh động, khoảng trên 40 tuổi. Albert Edward vẫn nuối tiếc cha sở tiền
nhiệm. Một linh mục bảo thủ. Rao giảng thong thả với giọng nói trong sáng. Thường
đi ăn tối với những giáo dân trí thức. Trong nhà thờ, cha thích mọi thứ đơn giản,
không bao giờ gây ra chuyện khó xử. Không giống như cha sở mới, chuyện gì cũng
tọc mạch. Nhưng Edward là người rộng lượng. Nhà thờ St. Peter nằm trong khu phố
giàu sang với nhiều giáo dân ngoan đạo. Cha sở mới đến từ miền viễn đông và
không ngờ ông đã nhanh chóng hòa nhập
vào giáo đoàn thượng lưu một cách kín đáo. Edward nhận xét: “Tất cả những vội vã này, từ từ, rồi cha sẽ
hiểu.”
Theo lối đi ra, đến gần, có thể nói chuyện
không cần phải lớn tiếng ở nơi thờ phượng, cha dừng lại.
“Ông từ,
ông có thể đến phòng lễ phục một lát không? Tôi có chuyện muốn nói.”
“Vâng, thưa cha.”
Cha sở chờ ông đến, rồi hai người cùng đi lên
nhà thờ.
“Con nghĩ, lễ rửa tội hay quá. Thật là vui,
em bé ngưng khóc ngay khi cha bồng nó,”
Linh mục cười nhẹ: “Tôi nhận thấy các em bé thường phản ứng như vậy. Sau nhiều năm làm lễ,
tôi có kinh nghiệm với các cháu.”
Đây là lòng tự hào ngấm ngầm. Gần như cha có
khả năng làm cho các bé sơ sinh nín khóc khi bồng chúng lên và đón nhận lòng
ngưỡng mộ thích thú của các bà mẹ, các ý tá, theo dõi cách vị linh mục dỗ dành
em bé trên đôi tay áo thụng. Ông từ biết, cha sẽ rất vui khi được khen ngợi về
tài năng này. Cha bước đến trước, đi vào phòng lễ phục, Edward vô cùng ngạc
nhiên khi thấy hai thành viên trong hội đồng quản trị giáo xứ đang hiện diện ở
đó. Không biết họ đến hồi nào. Họ gật đầu vui vẻ với ông.
“Xin
chào ông tướng,” “Xin chào ông quí tộc,” Edward chào từng người. Cả hai đều
lớn tuổi. Đều giữ chức vụ này lâu năm gần bằng thời gian ông làm ở nhà thờ. Họ
đang ngồi trên chiếc bàn đẹp mà cha sở cũ đã mua về từ Ý nhiều năm trước. Vị
linh mục ngồi xuống chiếc ghế trống giữa hai người. Edward đứng đối diện qua
chiếc bàn, cảm giác lo âu, không biết chuyện gì. Ông vẫn còn nhớ lần trước người
chơi đàn organ trong nhà thờ gặp rắc rối, gây nhiều phiền phức cho mọi người. Ở
nhà thờ như St. Peter, Neville, không thể để xảy ra chuyện gì bê bối. Khuôn mặt
đỏ của vị linh mục thể hiện sự dễ chịu nhưng cương quyết. Hai người kia có vẻ
hơi bồn chồn.
Ông từ nghĩ thầm: “Chắc cha quấy rầy họ, cố gắng thuyết phục họ làm việc gì nhưng họ
không thích. Đúng là như vậy, để rồi xem.”
Nhưng sự suy nghĩ không phải là đặc điểm nổi
bật và sắc sảo của ông. Đứng yên với thái độ tôn trọng nhưng không khúm núm.
Trước khi nhận nhiệm vụ tôn giáo này, ông đã từng phục vụ ở những ngôi nhà cao
cấp, vì vậy, muốn cho ông nghỉ việc là chuyện khó có thể xảy ra. Khởi sự, ông
làm việc như tiểu đồng trong gia đình của một hoàng tử làm nghề kinh doanh. Thăng
tiến từng bước một, từ vị trí thứ tư lên đến người hầu cận hàng đầu, chỉ một
năm, ông trở thành quản gia cho một góa phụ, rồi làm quản gia có hai người phụ
tá cho vị đại sứ về hưu, cho đến khi công việc ở nhà thờ St Peter cần người.
Ông cao gầy, nghiêm túc, có phẩm cách. Trông giống như một công tước hoặc tối
thiểu là diễn viên chuyên đóng vai công tước trong các tuồng cổ điển. Ông tế nhị,
cương quyết và tự tin, Với cá tính như vậy, khó buộc tội.
Cha sở nhanh nhẹn bắt đầu.
“Ông từ, chúng tôi có điều khó xử muốn nói với
ông. Ông đã làm việc ở đây nhiều năm. Tôi nghĩ, ngài quí tộc và ông tướng cũng
đồng ý với tôi, ông đã hoàn tất nhiệm vụ và làm hài lòng tất cả những người
chung quanh.” Hai thành
viên hội đồng quản trị gật đầu. “Nhưng rồi
một hôm, tôi nhận thấy một tình cảnh hết sức khác thường mà tôi có nhiệm vụ phải
thông báo cho những người có trách nhiệm trong nhà thờ. Hôm đó, tôi ngạc nhiên
vì đã phát hiện ra ông không biết đọc, cũng không biết viết.”
Khuôn mặt bị phụ bạc của ông từ không tỏ ra
chút nào xấu hổ. Ông trả lời: “Thưa cha,
cha sở trước đây đã biết điều này. Cha đã nói không sao, không khác biệt gì.
Cha cũng luôn luôn nói, có rất nhiều nền giáo dục trên thế giới chỉ vì thị hiếu.”
Ông tướng kêu lên: “Đây là điều kỳ dị nhất mà tôi được nghe. Ý của ông là ông đã ở nhà thờ
này suốt 16 năm mà chưa bao giờ phải đọc và viết”
“ Thưa ngài, năm 12 tuổi, tôi khởi sự làm việc.
Đầu tiên là giúp nhà bếp, người đầu bếp đã cố gắng dạy tôi nấu nướng, nhưng dường
như việc đó không phải là sở trường của tôi. Tiếp theo, từ việc này đổi qua việc
kia. Tôi không bao giờ có thời giờ để học. Tôi chưa bao giờ thật sự thấy nhu cầu
này cần thiết. Tôi nghĩ, một số người trẻ đã lãng phí nhiều thời giờ quý báu để
đọc, trong khi họ có thể làm những gì hữu ích hơn.”
Nhà quí tộc lên tiếng: “Nhưng ông không muốn biết tin tức trên báo hoặc viết thư hay sao?”
“Thưa ngài, không. Dù không đọc, không viết
tôi cũng đã xoay sở đời sống một cách tốt đẹp. Bây giờ, từ những cuối năm gần
đây, họ đăng tải tất cả những hình ảnh trên báo, nhờ vậy, tôi biết khá rõ chuyện
gì đang xảy ra. Vợ tôi là người có học. Nếu tôi muốn viết thư, cô ấy sẽ viết
giùm. Tôi không phải là đàn ông xuôi theo may rủi.” Cả hai ủy viên liếc nhìn cha sở một cách bối
rối rồi nhìn xuống bàn.
“Được rồi, ông từ, tôi đã bàn chuyện này với
hai vị ở đây. Chúng hoàn toàn đồng ý chuyện này không thể chấp nhận. Ở nhà thờ
như St.Peter, Neville, không thể có một ông từ không biết đọc, không biết viết.”
Khuôn mặt gầy gò, làn da tái xám chợt bừng đỏ.
Edward nhúc nhích đôi chân, cảm giác khó chịu, nhưng vẫn không nói gì.
“Ông từ, xin hiểu giùm cho, tôi không than
phiền điều gì. Công việc ông làm rất thỏa đáng. Tôi rất thưởng thức cá tính và
khả năng của ông, nhưng chúng tôi không có quyền chấp nhận sự rủi ro, nếu những
tai nạn xảy ra vì sự thiếu hiểu biết ngoài ý muốn của ông. Đây chỉ là nguyên tắc
thận trọng.”
Ông tướng hỏi: “Ông từ, ông không thể học được sao?”
“Thưa ngài, dạ không, tôi e rằng không thể được.
Không phải lúc này. Tôi không còn trẻ nữa. Nếu tôi đã không thể nhét chữ nghĩa
vào đầu khi còn bé, thì bây giờ, tôi không nghĩ mình sẽ có nhiều cơ hội.”
Cha sở nói: “Tôi không muốn gay cấn với ông, nhưng hội đồng quản trị và tôi đã hoàn
toàn nhất trí. Ông sẽ có thời gian ba tháng để học đọc và viết. Nếu hết thời hạn,
vẫn không được, tôi e rằng ông phải rời việc làm.”
Edward chưa bao giờ thích cha sở mới. Ngay từ
đầu, ông đã nói. họ lầm lẫn khi đưa vị linh mục này về nhà thờ St. Peter. Cha
không phải là loại người mà giáo hội muốn sống chung với một giáo xứ thượng lưu
như vậy. Bây giờ ông đứng thẳng lên một chút. Tự biết giá trị của mình, sẽ
không cho phép ai khi dễ. “Thưa các ngài,
tôi xin lỗi, tôi nghĩ rằng điều kiện này không thể được. Tôi là con chó quá
già, không thể học những trò mới. Trong nhiều năm qua tôi đã sống rất vui vẻ mà
không cần biết đọc và viết. Tôi không cần phải ca ngợi mình. Tự ca ngợi là điều
không nên. Tôi không ngại nói rằng, tôi đã làm xong bổn phận làm người dưới sự
quan phòng nhân ái đã sắp đặt. Bây giờ, nếu tôi có thể học, tôi không biết tôi
có muốn hay không.”
“Ông từ, như vậy, tôi e rằng ông phải nghỉ việc.”
“Vâng, thưa cha, con hiểu. Con sẽ từ chức
ngay sau khi cha tìm được người thay thế.”
Nhưng khi Albert Erward với vẻ lịch sự bình
thường, đóng cửa sau lưng cha sở và hai thành viên hội đồng đi vào nhà thờ, ông
không thể kéo dài tình trạng tự trọng trầm tĩnh mà ông cố chịu đựng sau một trận
đòn giáng xuống đời mình, môi ông run rẩy. Chậm rãi bước về phòng lễ phục, treo
chiếc áo trùm lên móc, đúng chỗ. Thở dài khi nghĩ đến những đám tang long trọng,
những đám cưới giàu sang mà ông đã tham dự. Dọn dẹp mọi thứ, mặc áo khoác, tay
cầm mũ, bước ra lối đi. Khóa cửa nhà thờ. Lang thang trên công trường, chìm sâu
vào những suy nghĩ buồn bã. Không đi theo con đường dẫn về nhà, nơi một tách
trà thơm đang chờ đợi, rẽ sang một lối khác. Từng bước, lòng nặng trĩu, không
biết sẽ phải làm gì. Không muốn trở lại làm việc ở các tư gia, sau bao nhiêu
năm tự làm chủ. Dù cha sở và các người trong hội đồng quản trị muốn nói gì thì
nói, nhưng chính ông mới là người điều hành công việc tại nhà thờ St. Peter,
Neville. Khó mà hạ mình chấp nhận một hoàn cảnh mới. Ông có tiết kiệm một số tiền
kha khá nhung không đủ sống nếu không làm thêm. Dường như giá cả mỗi ngày mỗi đắc
đỏ. Ông chưa bao giờ nghĩ sẽ phải đương đầu với những câu hỏi như vậy. Cứ tưởng,
ông từ ở St. Peter, như Đức giáo hoàng ở Rome, sẽ ở đó suốt đời. Tưởng tượng lời nhắc nhở thú vị của cha sở nói về ông trong bài giảng buổi lễ chiều ngày
chủ nhật đầu tiên sau khi ông nghỉ việc, cái kết thúc của một người trung thành
phục vụ lâu dài, một nhân vật mẫu mực, ông từ trong quá khứ, Albert Edward. Thở
dài ngao ngán. Không hút thuốc lá, ăn uống kiêng khem, nhưng trong phạm vi giới
hạn, ông thích một ly bia vào buổi cơm tối, Những khi mỏi mệt, ông thích thưởng
thức một điếu thuốc. Lúc này, chợt nghĩ đến một thứ có thể an ủi mình. Không
mang nó theo, cần tìm đến cửa hàng nào đó để mua một gói Gold Flake. Nhìn không
thấy tiệm nào, ông vội bước tiếp một đoạn. Con phố khá dài, đủ loại hàng hóa,
nhưng không có nơi mua thuốc lá. Tự nhủ: “Lạ
thật.” Để bảo đảm, ông đi ngược lại. Không còn gì nghi ngờ. Ông dừng chân,
băn khoăn, nhìn lui nhìn tới.
Ông nghĩ: “Tôi không thể là người đàn ông duy
nhất đi dọc theo đường phố này tìm thuốc lá. Lẽ ra, không nên bận tâm nhưng một
người cò thể kiếm được tiền nếu mở một gian tạp hóa nhỏ bán thuốc lá và đồ ngọt.
Ông đã tự cho mình một khởi sự đầy kinh ngạc.
“Đây cũng là một cách. Những ý tưởng kỳ lạ
thường hiện đến trong những lúc ít ai ngờ.”
Ông quay trở lại, về nhà uống trà. Vợ ông nhận
xét: “Chiều nay, anh rất im lặng,”
Ông trả lời: “Anh đang suy nghĩ.”
Trăn trở dự tính qua nhiều khía cạnh. Ngày
hôm sau, ông trở lại con phố. May mắn đã tìm được một cửa hàng nhỏ, trông rất
phù hợp với kế hoạch của ông. 24 giờ sau, ông thuê cửa tiệm, một tháng sau,
vĩnh viễn rời khỏi việc nhà thờ. Edward bắt đầu nghề buôn bằng làm người bán
báo và thuốc lá. Vợ ông nói rằng đây là sự xuống dốc đáng sợ sau khi làm ông từ,
nhưng ông trả lời, cứ tuân theo thời gian biến hóa. Nhà thờ đã không còn như
xưa. Từ đó, ông trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar. Ông làm ăn khắm
khá, đến nổi trong vòng khoảng một năm đã có ý định mở thêm tiệm thứ hai và mướn
người trông coi. Tìm kiếm những đường phố dài khác chưa có người bán thuốc lá.
Khi tìm thấy, ông thuê mướn rồi mở tiệm, và rất thành công. Sau đó, chợt nghĩ,
nếu mình điều khiển được hai tiệm, sẽ có thể mở thêm khoảng nửa tá cửa hàng. Thế
là ông đi khắp London, tìm những khu phố chưa có ai bán thuốc lá, để thuê một
gian hàng. Trong vòng 10 năm, ông làm chủ 10 cửa tiệm, kiếm tiền một cách nhanh
chóng. Mỗi thứ hai, tự mình đi từng tiệm thu tiền rồi mang đến ngân hàng.
Một buổi sáng, khi ông đang gửi bó tiền và một
túi bạc cắc nặng nề, nhân viên ngân hàng mời ông đến gặp ông giám đốc. Họ đưa
ông vào văn phòng riêng. Hai người bắt tay.
“Ông từ, tôi muốn nói chuyện về số tiền ông
đang gửi trong ngân hàng . Ông có biết chính xác là bao nhiêu không?”
“Không hoàn toàn chắc chắn, nhưng tôi biết đại
khái.”
“Ngoài số tiền gửi vào sáng nay. số tiền trước
đó khoảng trên 30 ngàn bảng Anh một chút, Đây là một món tiền lớn (*) chỉ để tiết
kiệm, tôi nghĩ ông nên đầu tư nó thì tốt hơn.”
“Tôi không muốn mạo hiểm. Tôi biết, tiền sẽ
an toàn trong quỹ tiết kiệm ngân hàng.”
“Ông không cần phải lo lắng quá. Chúng tôi sẽ
sửa soạn sẵn cho ông một danh sách các chứng khoán hàng đầu. Chúng có khả năng
mang lại cho ông nhiều tiền lời hơn quỹ tiết kiệm có thể cung ứng.”
Khuôn mặt ông từ hiện rõ lên nét bối rối: “Tôi không hiểu gì về chứng khoán và cổ phần.
Tất cả phải trông cậy vào các ông.”
Ông giám đốc nở nụ cười. “Chúng tôi sẽ lo tất cả. Lần tới, khi đến đây, ông chỉ cần ký giấy tờ
chuyển tiền vào đầu tư.”
“Vâng có thể được, nhưng làm sao tôi biết sẽ
ký tên cho việc gì?”
Ông giám đốc trả lời một cách lém lỉnh và bồi
theo nụ cười giải trừ lo lắng: “Ông từ,
ông có thể đọc.”
“Chà, như vậy thì thôi. Tôi không biết đọc.
Điều này có vẻ khôi hài, nhưng đúng như vậy, tôi không biết đọc, cũng không biết
viết. Chỉ biết ký tên, tôi mới học khi phải buôn bán.”
Ông quản lý kinh ngạc, nẩy bật trên ghế. “Đây là điều lạ lùng nhất mà tôi được
nghe.”
“Câu chuyện như thế này, tôi chưa bao giờ có
cơ hội đi học cho đến khi quá muộn. Lúc đó, tôi không còn muốn học nữa và trở
nên cố chấp.”
Ông giám đốc nhìn ông Edward như nhân vật
quái đản thới tiền sử. “Có phải ông muốn
nói, ông gầy dựng nên một việc kinh doanh quan trọng và tích lũy một số tài sản
giá trị hơn 30 ngàn bảng Anh mà không biết đọc biết viết? Chúa ơi, ông ạ, nếu
ông có thể đọc và viết thì ông sẽ còn là ai nữa?”
“Tôi có thể trả lời câu hỏi của ông.” Edward điểm nụ cười quý phái: “Tôi sẽ là ông từ của nhà thờ St.Peter,
trong công trường Neville.”
NGU YÊN dịch từ nguyên tác THE VERGER
Ghi:
(*) Vào thời điểm Maugham viết truyện này, 30
ngàn tiền bảng Anh là món tiền khá lớn.
(**) Trong văn bản chính, ông từ là người không học thức, lối nói của ông thường thiếu những nét chữ, gần như nói ngọng, gần như kiếu “á ái uông” (đá cái chuông) của Hồ Xuân Hương. Khi dịch, tôi chuyển lại bình thường để khỏi phải giải thích dài dòng.