PHAN TẤN HẢI
Thơ Nguyễn
Quốc Thái:
Nỗi
Buồn Ẩn Mật
Tôi
đã đọc thơ Nguyễn Quốc Thái từ hơn một thập niên. Và nhiều người đã đọc thơ anh
hơn một nửa thế kỷ. Hình như, tôi chưa thấy dòng thơ nào vui của anh. Và ngay cả
những dòng thơ có thể được suy đoán là vui, cũng vẫn có một nỗi buồn thần bí
trong đó – nơi đây, đành nói là thần bí, vì không giải thích minh bạch được.
Cũng
có thể vì tôi thấy nét mặt anh lúc nào cũng buồn. Đó là những lần tôi được gặp
anh, khi anh có dịp thăm Quận Cam. Cũng có thể vì Nguyễn Quốc Thái là một nhà
thơ ra đời trước tôi khoảng một thập niên, thuộc một thế hệ có nhiều chia ly
hơn là gặp gỡ, nhiều tan vỡ hơn là hàn gắn.
Cũng
có thể vì một vài câu thơ của Nguyễn Quốc Thái, tôi đã đọc qua, và chợt nhớ một
vài ý trong đó. Như bài thơ có nhan đề Todo Passa. Anh làm bài thơ này từ
Sài Gòn, vào tháng 12 năm 2017. Trích năm dòng đầu như sau.
Một
mình tôi với những câu thơ đau đớn mới
Lời
vỗ về an ủi như tiếng gió lùa qua bến bờ lau sậy
Tôi
ngã xuống như một hẹn ước dở dang
Ngày
đầu năm gió quất vào mặt lời cỏ úa
Những
nhịp buồn thôi thúc tôi ngợi ca ngày thứ Năm thần thánh
Câu
thơ đau đớn… Anh không nói là người đau đớn. Kiểu làm thơ của anh là thế. Nguyễn
Quốc Thái ngay dòng đầu đã tự nhận là cô đơn (một mình tôi) với những “câu thơ
đau đớn” mới. Thế rồi anh ngã xuống với một hẹn ước dở dang nào đó. Rồi nhịp buồn
xui giục anh… Tôi cũng không biết chính xác nhan đề “Todo Passa” có nghĩa là
gì, nên tra tự điển, và được biết có hai nghĩa chính: (1) mọi chuyện rồi sẽ
qua, (2) mọi chuyện xảy ra đều có lý do.
Như
thế, có vẻ như lúc đó anh có chuyện gì không vui. Thế rồi tôi chợt nhớ ra,
không mấy khi thấy thơ anh có những niềm vui. Nhưng tại sao dùng ngoại ngữ? Tôi
suy đoán rằng anh không muốn để lộ minh bạch tất cả những gì anh suy nghĩ. Tuy
nhiên, viết như thế sẽ có thể gây ngộ nhận, hay làm cho khó hiểu với nhiều người.
Ngay cả với người mỗi ngày đều phải đọc đủ thứ như tôi cũng không chắc hiểu hết
ý nhà thơ.
Nguyễn
Quốc Thái nói rằng anh dự định gom tất cả những bài thơ của anh đã đăng gần đây
để in thành một tập thơ với tên:
“VỚI
MẸ,
TỰ
DO VÀ EM”
Nhan
đề ngắt dòng, xuống thành hai hàng. Đó là kiểu của anh. Nhan đề phải viết toàn
chữ hoa. Tôi đọc, nhưng không ưa lý luận, thấy ngay tức khắc rằng, mẹ và em là
hai người cụ thể, có da thịt, có đi đứng, có nói cười… Còn tự do là một khái niệm,
một trạng thái, một cảm thọ, và thường được nhắc tới khi chợt ý thức rằng mình
đang thiếu tự do. Đó cũng là kiểu của Nguyễn Quốc Thái: khái niệm “tự do” trở
thành một người cụ thể, và người cụ thể đó nằm giữa Mẹ và Em. Nói khác, có vẻ
như anh nói về tự do như chức năng của nhà thơ, hay là khát vọng sáng tạo của
thi sĩ? Tôi nghiệm ra rằng không có gì khẳng định nơi thơ anh, tất cả đều là một
nỗi buồn rất sương mù.
Thơ
anh không nói nhiều. Cũng không phải kiểu thơ bí hiểm, nhưng là những gì được
nói rất cân nhắc, rất kiệm lời. Nguyễn Quốc Thái có một bài thơ chỉ có bốn
dòng, nhan đề nghe "tâm tư" rất mực, khi so sánh thi sĩ và thập giá
mà nhà thơ gánh vác. Bài như sau.
.
Thi
sĩ và thập giá nhà thơ Huế 2010
Tự
do! Tự do!
Tai
hoạ của niềm tin vụng dại
Ập
xuống
Không
kịp hôn từ giã.
.
Tôi
không nghĩ ra chuyện gì ở Huế năm 2010 có liên hệ tới nhà thơ và tự do. Nhưng
thấy rõ, đó là những dòng thơ rất buồn, nói về một ước mơ tự do trong niềm tin
vụng dại, và chuyện gì đó đã lôi nhà thơ đi vội mà không kịp hôn từ giã. Tôi tự
thấy mình rất gần với những cảm xúc đó của anh, tự thấy có những lời muốn nói
và chỉ nói ra được một phần, và rồi có những lời không muốn nói ra hết, rồi vẫn
luôn luôn ngập ngừng…
Đọc
thơ Nguyễn Quốc Thái cũng cần có kiến thức uyên bác. Ý tôi muốn nói là phải vừa
đủ uyên bác để hiểu vài chuyện. Thí dụ như bài thơ trên, tôi không hiểu chuyện
gì dính tới Huế năm 2010. Hay như trong bài thơ “Todo Passa” đã trích đầu bài,
ngày “thứ Năm thần thánh” là gì thì tôi không hiểu, có lẽ mơ hồ đoán là có liên
hệ gì tới Mùa Chay của Công Giáo, vì biết anh là một giáo dân siêng đi nhà thờ.
Trong
khi đó, bài thơ sau rất là ngậm ngùi. Nhan đề bài thơ ngắt thành 2 dòng. Bài
thơ có 2 đoạn, đoạn đầu gồm 5 dòng, đoạn thứ nhì (và là đoạn cuối) có ba dòng.
Toàn bộ bài thơ như sau.
.
Chiều
Tháng Tư
ở Bến
Bạch Đằng
.
Buổi
chiều trần truồng
bơi
qua sông sang bờ bên kia
Tiếng
chuông nhà thờ tha thẩn trong công viên
Ly
cà phê nóng uống chung không hết
lấy
gì làm vốn nhớ nhau
.
Ngày
chia tay chỉ có tiếng còi tàu ngoái nhìn anh
Những
sợi tóc đẫm nắng như tổ chim trong gió
Sayonara.
Bon voyage. Tình yêu dấu.
Bài
thơ rất buồn. Nơi dòng cuối bài, Nguyễn Quốc Thái dùng chữ từ biệt tiếng Nhật
“Sayonara” --- chữ này có nghĩa là “vĩnh biệt” hay là “xin chia tay, không biết
bao giờ gặp lại.” Trong khi đó chữ kế tiếp là từ biệt bằng tiếng Pháp “Bon
voyage” có nghĩa là “Chúc chuyến đi bình an.”
Khi
đọc tới dòng chữ cuối bài, mới hiểu nhan đề “Chiều Tháng Tư ở Bến Bạch Đằng” hẳn
là tháng tư 1975, và từ biệt người đi ở Bến Bạch Đằng có nghĩa là không biết
bao giờ gặp lại, và chuyến đi dĩ nhiên đầy bất trắc. Buồn tới nỗi hai đứa không
uống hết một ly cà phê chung. Buồn tới nổi buổi chiều trong nắng vàng được thi
sĩ nhìn thấy là “trần truồng” --- để buổi chiều có thể bơi từ bờ này qua bờ bên
kia. Nơi đây, tôi suy đoán theo cảm nhận riêng. Không chắc gì Nguyễn Quốc Thái
đã có những hàm ý như thế. Một hình ảnh đẹp tượng trưng cho sự cứu rỗi là tiếng
chuông nhà thờ vẫn tha thẩn trong công viên, nghĩa là xa lìa những quay quắt dằn
vặt của người đời. Và hình ảnh rất buồn là khi anh viết rằng “còi tàu ngoái
nhìn anh” cũng như những sợi tóc đẫm nắng. Khi người ta chia tay, khi ngươi ta
nhìn nhau lần cuối, và chỉ thấy sợi tóc đẫm nắng, hẳn là, hoặc lúc đó nước mắt
làm cho không thấy rõ các hình ảnh khác, hoặc là nhà thơ không dám nhìn thẳng mặt
người sắp chia tay, sợ là nỗi buồn sẽ làm trôi cả buổi chiều.
Đọc
thơ Nguyễn Quốc Thái, rất nhiều khi chúng ta thấy anh làm thơ như riêng cho
anh, bởi vì rất kiệm lời, không dài dòng, đôi khi lửng lơ không nói trọn câu,
và có thể có những dòng thơ chỉ có anh và một người nào đó hiểu. Như bài thơ có
nhan đề thơ ghi một phần thời gian với số La mã. Có lẽ, anh không muốn ghi bằng
số thường, và đã chọn cách ghi bằng số La mã cho một kỷ niệm đặc biệt. Bài thơ
như sau, chỉ có ba dòng, cộng thêm nhan đề là bốn dòng.
.
Cali,
XII.1994
Gặp
người xưa, vết thương chưa...
Nắng
bay vàng phố
sầu
vơ tôi về.
.
Hóa
ra, gặp người xưa mà không vui? Thế là nhà thơ trôi vào một cơn sầu muộn. Thơ
tình Nguyễn Quốc Thái cũng cứ kiểu như thế: luôn luôn là ngăn cách, là chia xa.
Cuộc đời không mấy khi chia tay là sẽ gặp lại.
Anh
cũng có một bài thơ tình ngắn, nhưng là hình ảnh chờ nhau nơi sân bay. Nếu
chúng ta nhớ tới những bài thơ tình nửa thế kỷ trước, thơ tình sẽ có hình ảnh
hoặc là chia tay hay gặp lại ở nhà ga xe lửa. Nếu nhớ tới những bài thơ tình
vài trăm năm trước, hình ảnh nơi chia ly hay gặp lại có thể là bến đò cổ độ,
hay là qua ngõ thiên san tiễn rượu vừa tàn. Nhà thơ Nguyễn Quốc Thái lại kể về
nơi “gió nhớ bay cồn cào” ở sân bay. Bài thơ có nhan đề là Vỹ Thanh, hẳn là
cách viết thi ca của vĩ thanh, nói về những gì nối tiếp, những gì theo sau phần
chính, ngắn gọn là phần bổ sung sau đoạn kết. Có phải thi sĩ muốn nói về một đoạn
kết của một mối tình, rồi chợt nhớ ra còn phần sau đoạn kết, thế là lấy giấy mực
ra viết những dòng thơ tình nơi phòng đợi sân bay.
Vỹ
Thanh
Anh
nhớ em gầy đi như phố cổ
Như
mùa thu kiễng chân
ôm
Hà Nội
Như
gió cồn cào ngoài sân bay,
Ly
cà phê trong phòng đợi
Như
những câu thơ rời
Anh
đăng trên
Vành
tai em phơn phớt hoa đào.
Đọc
bài thơ trên, tôi nghe âm vang của chữ như giọng Hà Nội. Tôi nghiệm ra, theo
cách chủ quan từ kiểu quen giọng Sài Gòn, thơ anh có một giọng Hà Nội ẩn tàng,
trầm lắng. Hình ảnh ngỡ như cổ điển, nhưng lại rất lạ, “như những câu thơ rời
/ anh đăng trên / vành tai em phơn phớt hoa đào.” Hiển nhiên, vành tai em
không bao giờ là giấy để anh chép thơ lên, vành tai em không bao giờ là màn
hình vi tính để anh gõ chữ lên, vành tai em không bao giờ là các trang báo để
anh bấm nút chạy máy in thơ lên… nhưng nơi đây, gió cồn cào thì thầm những câu
thơ rời của anh đăng trên vành tai em. Mọi chuyện tự nhiên trở nên siêu thực,
như dường hình ảnh gầy như phố cổ, như mùa thu phải kiễng chân để ôm cho trọn
Hà Nội, và trong trí nhớ của chàng là những câu thơ rời…
Nguyễn
Quốc Thái có một bài thơ mang chủ đề Giáng Sinh. Bài thơ này lẽ ra phải là vui
lắm, nhưng ngay dòng đầu đã là một hình ảnh rất buồn: "Nửa đêm, Chúa ướt
đẫm mồ hôi trốn khỏi hang đá đến rủ tôi: Đi chơi." Như dường Chúa cô
đơn nên muốn tìm nhà thơ làm bạn. Tuy nhiên, Chúa trong ngày Giáng Sinh lẽ ra
chỉ là một em bé mới ra đời, nhưng nơi đây thi sĩ Nguyễn Quốc Thái lại hình
dung ra một đấng rời thập giá lâu ngày chạy không quen... Nghĩa là, Giáng Sinh
không thuần túy là hình ảnh ra đời nơi hang đá, mà đồng thời cũng là hình ảnh
Phục Sinh --- và thực sự, chỉ có nơi Phục Sinh, Chúa mới tương tác với nhà thơ
qua các hình ảnh "Chúa giắt tôi chạy... Chúa nằm quay lơ trên đất thở hổn
hển, Chúa nằm gối đầu lên tay nhìn bầu trời... Chúa nhìn tôi nháy mắt... Và tôi với Chúa nắm tay nhau chân sáo nhỏ, Và
tôi với Chúa vật nhau trên cỏ..." Bởi vậy, nơi đây, trong thơ Nguyễn
Quốc Thái, Giáng Sinh và Phục Sinh là một. Bởi vậy, nơi đây niềm vui và nỗi buồn
hòa vào nhau... để tới một thực tế sẽ phải trở về "Ở trong nhà thờ mãi ốm
yếu và nhức đầu"...
Bài
thơ có nhan đề hai dòng:
“Giáng
Sinh
Món Quà
Nhỏ Thân Tặng”
Nơi
đây, chúng ta trích hai đoạn cuối bài thơ rất thơ mộng này (đoạn áp chót dài 13
dòng, và đoạn chót chỉ 4 dòng):
Chúa
kêu mệt quá mệt quá,
chạy
chơi mệt nhưng khỏe
Ở
trong nhà thờ mãi ốm yếu và nhức đầu
Ở
trong nhà thờ mãi có cái chẳng biết gì
Ở
trong nhà thờ mãi thiếu nắng gió
da dẻ
tớ xanh xao
Cậu
như vậy mà sướng, thi sĩ,
trái
đất này quyến rũ quá phải không
Cậu
hãy bay nhẩy cùng thơ và hy vọng
Hãy
bay nhẩy cùng mồ hôi và sáng tạo
Hãy
bay nhẩy cùng thương yêu nhân loại
Hãy
bay nhẩy cùng người yêu cùng kỷ niệm
Cùng
Giáng Sinh, món quà nhỏ tặng cậu.
.
Và
tôi cất cánh bay cùng trái đất
Bay
cùng Giáng Sinh hồng hào khỏe mạnh
Bay
khắp vũ trụ
với
những ngọn nến run như nụ hồng nhỏ.
Hình
ảnh bay cùng Giáng Sinh, bay khắp vũ trụ, với những ngọn nến rung như nụ hồng
nhỏ… hiển nhiên là một niềm vui sau những lời rầy la cõi này rất buồn rằng “Ở
trong nhà thờ mãi ốm yếu và nhức đầu”…
Nguyễn
Quốc Thái có một bài thơ về mẹ. Bài thơ làm sau Tết Mậu Thân 1968, khi bùng nổ
những trận khói lửa khắp các tỉnh Việt Nam. Đó là những ngày Tết không mấy người
quên. Bản thân tôi là học sinh lớp 10 Chu Văn An SG, sau đó tình nguyện vào xây
dựng khu tạm cư Lý Thái Tổ cho đồng bào bị bom đạn mất nhà có nơi ở mới, cảm
xúc còn rất là thơ dại, chẳng hiểu hết những bi thảm vừa xảy ra trên toàn quốc.
Bài thơ Nguyễn Quốc Thái hiển lộ những hình ảnh rất mực bi thảm: mẹ phải trốn
(hiển nhiên là chạy loạn, trốn cái chết), người chết như than, chết co quắp,
súng trên tay anh súng trên tay em (huynh đệ tương tàn), đạn nổ ngoài đường đạn
nổ trong tim… Bài thơ rất buồn, nhiều hình ảnh đầy thi tính chết người (cỏ non
như nước mắt, ta mừng nhau máu đỏ, canh máu đầy nồi cơm)…
Bài
thơ này của anh có sức mạnh rất lạ: với những
độc giả đã từng trải qua những ngày thảm sát của Tết Mậu Thân, đọc qua một
lần là khó quên. Toàn văn bài thơ Ngày Về Mừng Tuổi Mẹ đăng lại trên Việt
Báo Xuân 2018 (nghĩa là, tưởng niệm 50 năm Tết Mậu Thân), không nói gì về hình ảnh
người lính (dù bên này hay bên kia), không nói gì về sức mạnh chiến tranh (dù
xe tăng hay chiến đấu cơ), không nói gì về những khái niệm trừu tượng như chính
thể hay màu cờ, chỉ nói về những người gánh chịu khổ nạn như mẹ, như người chết,
như em thơ. Bài thơ toàn văn như sau.
Ngày
Về Mừng Tuổi Mẹ
Đọc
lại thơ từ Tết Mậu Thân
Nhà
đây rồi mẹ trốn ở đâu
Trưa
vàng khô thõng tay buồn rầu
Mùa
xuân ngơ ngác trên rầm bếp
Người
ngược xuôi xốc xếch thương yêu
.
Thưa
mẹ trên đường về nhà ta
Con
thấy bao nhiêu người vội chết
Người
chết như than, người chết co quắp
Người
cụt tay và người bẹp đầu
.
Tháng
Giêng cỏ non như nước mắt
Đạn
nổ ngoài đường đạn nổ trong tim
Súng
trên tay anh súng trên tay em
Năm
mới rồi ta mừng nhau máu đỏ!
.
Mẹ
ơi mặt trời đã bỏ chúng ta
Đêm
than đá ngày than đá mắt than đá
Ôi
em thơ môi mím mắt dại khờ
Tay
run đỡ tiếng rít răng hau háu
.
Mùa
xuân mở tươi từng dây máu đỏ
Máu
cha máu mẹ máu chị máu anh
Máu
đầy xoong canh máu đầy nồi cơm
Đấy,
anh em dùng cho no mộng ước
.
Mẹ
ơi bây giờ mẹ trốn ở đâu
Mẹ gặp
gốc cây cửa sổ mái lầu
Mẹ gặp
người đi kẻ lại
Tay
khẳng khiu nhớ giơ khỏi đầu
.
Con
len lỏi về đây mừng tuổi mẹ
Ánh
sáng thiu đen trên những cột đèn
Mùa
xuân bứng mất từng chân trẻ em
Cây
thơm lộc nôn nao chùm thịt tím
.
Đạn
nổ ngoài đường đạn nổ trong tim
Mẹ
ơi bây giờ mẹ trốn ở đâu?
(Trích
tạp chí Đất Nước,
Tháng
Tư, Sài Gòn 1968)
Thơ Nguyễn Quốc Thái rất buồn, rất ẩn mật. Khi nói về chiến tranh, về thời điểm chết chóc nhất của quê nhà, anh chỉ nêu câu hỏi: Mẹ ơi bây giờ mẹ trốn ở đâu? Anh không lý luận, không quy lỗi, không giải thích, không đòi hòa bình, không lên án chiến tranh… Anh làm thơ trong vị trí đứng bên nạn nhân, viết cho nạn nhân, kể chuyện rồi nêu câu hỏi rằng mẹ trốn nơi đâu. Anh cũng ẩn mật khi nói về tình yêu. Ghi lại một hình ảnh giai nhân, anh lặng lẽ kể chuyện ngồi bên cơn gió cồn cào ở sân bay, rồi thắc mắc chuyện gặp người xưa mà sao vết thương chưa… Hay là, khi kể về một chia biệt thời rất xa nơi Bến Bạch Đằng, anh ghi lại hình ảnh ly cà phê hai đứa uống chung vẫn chưa cạn trong khi người đã xuống tàu rời bến… Khi viết về khát vọng tự do năm 2010 (không rõ sự kiện nào), anh chép xuống rằng đó là tai họa niềm tin vụng dại… Và rồi có lúc nhìn lại thì “Một mình tôi với những câu thơ đau đớn mới.”
Chúng ta phải đọc rất chậm, mới thấy
trong những chữ dịu dàng, tinh tế của Nguyễn Quốc Thái là một nỗi buồn ẩn mật,
nơi đó anh tự thấy hình ảnh các dòng thơ của anh cũng khẳng khiu như cánh tay
những bà mẹ trong Tết Mậu Thân bước đi giữa phố với “Tay khẳng khiu nhớ giơ
khỏi đầu.” Thơ của Nguyễn Quốc Thái cũng buồn khẳng khiu như thế.
PHAN TẤN HẢI
4.2022